Caplan, 1961:
“Con người rơi vào trạng thái khủng hoảng khi họ đối mặt với một thử thách trước những mục tiêu quan trọng của cuộc sống - trở ngại mà, sau một thời gian, không thể vượt qua nếu chỉ giải quyết một cách thông thường.”
Lillibridge and Klukken, 1978:
“Khủng hoảng... là sự phá vỡ cân bằng khi một người thất bại trong việc giải quyết vấn đề theo kiểu truyền thống dẫn đến sự đảo lộn, vô vọng, buồn bã, hoang mang, và hoảng sợ.”
James và Gilliland, 2001:
“...Khủng hoảng là nhận thức hoặc trải nghiệm về một sự kiện hoặc tình huống khi mà một khó khăn không thể chịu đựng được vượt khả năng đối phó của người đó. "
ĐỊNH NGHĨA CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TINH THẦN
Khủng hoảng là hệ thống hành niềm tin và hành vi phản ứng của một người trước một hoàn cảnh, một tình huống, một sự kiện... trong cuộc sống, được lưu giữ và đề xuất như một hệ thống phản ứng thường trực, dẫn đến những thay đổi rõ ràng trong tâm trạng, hành vi, cách suy nghĩ của người đó.
Cuộc sống của một người gần như được chia cắt làm hai: Con người trước khủng hoảng và con người đang khủng hoảng. Sự thay đổi này ảnh hưởng tới sâu sắc tới mọi lĩnh vực trong cuộc sống của người đó.
Nói cách khác, khủng hoảng có thể tạo ra những những trở ngại, đau đớn, tổn thương, suy sụp, hoàn toàn mất phương hướng...
Nhưng khủng hoảng cũng có thể là cơ hội giúp ích cho sự phát triển nhân cách, chuyển hóa hành vi, thậm chí "giác ngộ" tâm linh.
Điều này tùy thuộc vào cách nhìn nhận, cách đón nhận, cách phản ứng với khủng hoảng của mỗi một cá nhân.
MỘT SỐ DẤU HIỆU CỦA KHỦNG HOẢNG
Một số dấu hiệu thể chất
Rối loạn giấc ngủ
Rối loạn ăn uống
Thay đổi cân nặng
Bỏ bê việc chăm sóc thân thể, vệ sinh cá nhân
Mỏi mệt, ủ rũ, kiệt quệ, thiếu sức sống
Xu hướng nghiện
Một số dấu hiệu sức khỏe tinh thần
Thường xuyên thay đổi tâm trạng đột ngột, thất thường
Chìm sâu vào các tâm trạng và suy nghĩ tiêu cực
Đấu tranh nội tâm liên tục
Biểu hiện của lo âu, căng thẳng thường xuyên, đôi khi vô cớ
Mất niềm tin, bất lực, bế tắc
Hệ thống niềm tin và giá trị bị đảo lộn, sụp đổ...
Các dấu hiệu trong cuộc sống:
Giảm hiệu suất ở trường hoặc nơi làm việc
Thiếu tập trung, nhiều tạp niệm
Không tham gia những hoạt động yêu thích thông thường
Khép kín, tự cô lập
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG HOẢNG
Khủng hoảng phát triển
> Đây là các khủng hoảng tâm lý diễn ra như một phần tất yếu của quá trình phát triển qua các giai đoạn khác nhau của cuộc đời, do vậy một phần có thể dự đoán được.
> Ví dụ như khủng hoảng niên thiếu, các khủng hoảng trong giai đoạn phát triển tâm lý xã hội...
Khủng hoảng hiện sinh
> Là các xung đột nội tâm liên quan đến cách tiếp cận cuộc sống, mục đích sống, phương hướng sống và các vấn đề tâm linh.
> Khác với niềm tin phổ biến, khủng hoảng trung niên không ít khi xuất phát từ khủng hoảng phát triển, mà thường bắt nguồn từ các áp lực lo lắng hiện sinh.
Khủng hoảng do sự kiện, hoàn cảnh
> Đây là những chấn động bất ngờ và to lớn, trước một sự kiện đau đớn, đau buồn, gây tổn thương sâu sắc và được đánh giá như một sự kiện đặc biệt nguy hiểm tới sự tồn tại.
> Sự kiện gây khủng hoảng này có thể là các sự kiện đột ngột, như tai nạn, thiên tai.
Cũng có thể là các sự kiện lặp lại trong một thời gian nhất định, như chiến tranh, ngược đãi, bạo hành.
Hiện tượng khủng hoảng cũng có thể phát triển sau các sự kiện đau buồn trong cuộc sống như ly hôn, mất người thân ...
Xem thêm:
Các giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của Erikson
NÊN LÀM GÌ KHI RƠI VÀO KHỦNG HOẢNG
XÁC ĐỊNH CÁC ƯU TIÊN
Để giúp bản thân thoát khỏi tình huống không an toàn và tiết kiệm năng lượng, nên xác định lại các ưu tiên thời gian của bạn. Tránh tham gia vào quá nhiều hoạt động, đề ra quá nhiều mục tiêu. Nên tập trung vào những điều cơ bản, thiết yếu, quan trọng nhất trong hiện tại và tương lai gần của bạn.
QUAN TÂM HƠN TỚI BẢN THÂN
Trong lúc này, nên tránh hà khắc và cay nghiệt với bản thân. Thay vì cố ép bản thân phải sớm vượt qua, hãy nhẹ nhàng tự ủng hộ và động viên bản thân bằng những bước tiến nho nhỏ. Hãy chấp nhận cho bản thân thời gian để vượt qua, phục hồi.
Thay vì phán xét bản thân, hãy nhắc nhở rằng mình vẫn đang cố gắng để cải thiện tình trạng. Và nếu có lỡ nhận ra mình đang lên án chính mình, thì hãy để những ý nghĩ ấy trôi qua, tức là cố gắng dừng phán xét chính những phán xét của mình.
Nên tìm đến các liệu pháp giảm bớt căng thẳng như hít thở sâu, vận động thể chất nhẹ nhàng và đều đặn.
Hãy chú trọng tới thực phẩm lành mạnh, và nhịp sống điều độ, đặc biệt là cho phép bản thân ngủ đủ giấc mỗi đêm.
Nên nhớ, trạng thái khủng hoảng mà bạn đang gặp phải chỉ có tính thời điểm, sẽ sớm có sự thay đổi.
MỞ LÒNG TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP
Thay vì khép kín, hãy tìm tới sự trợ giúp của gia đình, bạn bè, người thân, các nhóm hội, các nguồn lực cộng đồng... để chia sẻ kinh nghiệm, suy nghĩ, giảm gánh nặng.
Bạn cũng nên cân nhắc việc tìm tới các hỗ trợ, đồng hành của các chuyên gia, giúp bạn vượt qua cuộc khủng hoảng và phục hồi trạng thái tinh thần lành mạnh hơn.
GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC ĐỐI MẶT VỚI KHỦNG HOẢNG
Đón nhận họ bằng cách lắng nghe không phán xét những suy nghĩ, cảm giác, cảm xúc... mà họ chia sẻ, một cách chân thành, cởi mở.
Tập trung vào sự đồng cảm bằng cách xác định lại ngắn gọn những gì bạn nghe từ họ, không diễn giải theo ý của riêng bạn.
Thay vì đưa ra các phân tích, giải pháp, lời khuyên, hãy tập trung vào hỗ trợ họ bằng cách xác nhận, khuyến khích những nỗ lực của họ.
Một người đang rơi vào khủng hoảng có thể gặp rối loạn nhịp điệu sống, và rất cần bạn trợ giúp các công việc hàng ngày, như dọn dẹp, chợ búa, nấu nướng ... để giảm gánh nặng cho họ, và giúp họ tập trung vào đương đầu và vượt qua khủng hoảng.
Khuyến khích, ủng hộ họ liên hệ với các chuyên gia sức khỏe tâm thần để được hỗ trợ và giúp đỡ đúng cách, có chuyên môn. Bạn có thể giúp họ tìm kiếm, chọn lựa các địa chỉ uy tín, đặt hẹn, cùng họ viết sơ lược một số câu hỏi muốn được tư vấn, và cùng họ tới buổi hẹn đầu tiên.
KHỦNG HOẢNG PHÁT TRIỂN TÂM LÝ XÃ HỘI
(Các giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của Erikson)
Erik Erikson (1902-1994) nhà tâm lí học Mĩ gốc Đức, là một trong những tác giả đầu tiên nhấn mạnh đến các khía cạnh xã hội ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển lứa tuổi, mà ở đó mỗi giai đoạn có những mâu thuẫn nhất định giữa nhu cầu cá nhân và sự đáp ứng xã hội.
Học thuyết của Erik Erikson đã phát triển từ học thuyết Freud, nhưng nhấn mạnh chủ yếu đến các vấn đề thích nghi mà môi trường xã hội đặt ra cho cá nhân qua 8 giai đoạn khủng hoảng lớn của cuộc đời. Dưới sự tác động của môi trường xã hội, những mâu thuẫn đó nếu được giải quyết sẽ làm cho nhân cách trẻ được phát triển. Trong trường hợp ngược lại, cá nhân sẽ có những rối loạn tâm lí, gây ảnh hưởng tới sự phát triển ở các giai đoạn lứa tuổi sau.
Giai đoạn khủng hoảng 1 – Giai đoạn 0 – 12 tháng tuổi:
Sự tin tưởng><sự không tin tưởng, lo hãi, hụt hẫng, liên quan đến sự thoả mãn hay không thoả mãn các nhu cầu sinh lí cơ bản.
Nếu không được đáp ứng thoả mãn, ví dụ, trẻ khóc vì đói nhưng nguời mẹ lại đáp ứng lộn xộn: lúc thì cho ăn lúc thì không cho ăn hoặc đáp ứng một nhu cầu không phải của trẻ – bế hoặc tắm rửa, sự đáp ứng tùy tiện này sẽ làm cho trẻ bị rối loạn phản ứng và không thành lập được phản xạ có điều kiện và động hình. Vì vậy trẻ sẽ nghi ngờ, mất lòng tin vào bản thân và những người xung quanh. Ngược lại, nếu người mẹ (xã hội – bên ngoài) luôn đáp ứng nhu cầu, trẻ sẽ hành động theo phản xạ có điều kiện, theo kinh nghiệm, “niềm tin” của trẻ và vì thế trẻ có được sự tự tin và lòng tin cậy vào người khác.
Giai đoạn khủng hoảng 2 – Giai đoạn 12 tháng –3 tuổi:
Sự tự chủ >< Sự hoài nghi.
Giai đoạn gắn với sự tập luyện đầu tiên và chủ yếu là tập luyện sạch sẽ, tương ứng với giai đoạn hậu môn của Freud.
Nếu trẻ được giúp đỡ để làm chủ cơ thể, trẻ sẽ tự chủ, tự kiểm soát và hình thành ý thức độc lập theo. Giai đoạn này trẻ thường hành động theo kiều khăng khăng “tự con” một cách bướng bỉnh. Ngược lại, sự kiểm tra và làm hộ con một cách quá thái hoặc tác động không nhất quán từ bên ngoài (chủ yếu là cha mẹ, người thân trong nhà) có thề dẫn đến sự hổ thẹn và sự hoài nghi khả năng của bản thân, liên quan đến sợ hãi, lệ thuộc và mất tự chủ.
Giai đoạn khủng hoảng 3 – Giai đoạn 3 – 6 tuổi:
Sáng kiến >< Mặc cảm tội lỗi.
Đây là thời kì trẻ khẳng định bản thân, liên quan đến sự ủng hộ, giúp đỡ những việc mà trẻ muốn tự làm.
Nếu người lớn để trẻ em thực hiện sẽ cho phép phát triển sự sáng tạo, sự khẳng định bản thân.
Ngược lại, nếu bị cản trở, gặp thất bại liên tục với hành động không có trách nhiệm, có nguy cơ đưa trẻ đến cam chịu và có mặc cảm tội lỗi.
Giai đoạn khủng hoảng 4 – Giai đoạn 6–12 tuổi:
Năng lực >< Sự tự ti kém cỏi.
Trẻ cần được chuẩn bị tốt các nhiệm vụ có liên quan đến trường học. Việc luyện cho trẻ tính ham thích làm việc, ham muốn học hỏi kiến thức, học làm việc giúp trẻ sẽ có cảm giác thành công. Điều này giúp trẻ hình thành sự ham thích làm việc tốt.
Ngược lại, nếu trẻ không được học hỏi, khám phá, trẻ sẽ cảm thấy mình kém cỏi, nhút nhát khi sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc đứng trước bạn bè. Kết quả này chủ yếu do không khí học tập và phương pháp giáo dục ở nhà trường tạo nên.
Giai đoạn khủng hoảng 5 _ Giai đoạn 12–18 tuổi:
Bản sắc >< Lẫn lộn vai trò. Còn gọi là khủng hoảng tuổi dậy thì
Cùng với sự phát triển hoàn thiện về sinh lý, kinh nghiệm sống và vai trò xã hội, trẻ nhận thức được bản sắc, giá trị của bản thân. Bản sắc liên quan đến sự thống hợp các kinh nghiệm trước đây với các tiềm năng.
Nếu trẻ không thể hoặc khó có thể tìm ra bản sắc của cá nhân, sẽ dẫn đến sự lẫn lộn vai trò mà trẻ phải đóng trên bình diện cảm xúc xã hội, nghề nghiệp trong giai đoạn đó và trong suốt cuộc đời.
Giai đoạn khủng hoảng 6 – Giai đoạn 18–40:
Sự thân thiết >< Sự cô lập
Đây là giai đoạn của người trẻ tuổi, tương ứng với việc tìm kiếm sự mật thiết của tình yêu đôi lứa để cùng chia sẻ về việc làm, giải trí, tình dục và sinh sản con cái nhằm đảm bảo sự phát triền toàn diện. Ngược lại, nếu thanh niên không được trải nghiệm hoặc tránh các trải nghiệm những nhu cầu này sẽ dẫn đến tự cách ly và co mình lại, xa lánh xã hội và mọi người xung quanh.
Giai đoạn khủng hoảng 7 – Giai đoạn 40–60:
Sự phát triển >< sự trì trệ. Đây là giai đoạn của tuổi trung niên.
Đặc điểm của nó là tính phát triển, thể hiện khả năng sáng tạo trong các lĩnh vực khác nhau, sự quan tâm và giáo dục thế hệ tiếp theo. Con người có thiên hướng quan tâm phát triển đạo lí hơn vật chất, quan hệ tính dục dần mờ nhạt và được xã hội hoá. Ở giai đoạn này con người cần duy trì đời sống xúc cảm để tránh sự cạn kiệt tình cảm do các sự cố của gia đình hoặc sự tách dời của các con. Điều cốt yếu của tuổi trung niên là giữ cho được sự mềm dẻo về tâm trí thông qua việc đi tìm các giải pháp mới hơn là duy trì những thói quen, kinh nghiệm cứng nhắc. Điều này làm cho con người bị trì trệ, ngưng phát triển.
Giai đoạn khủng hoảng 8 – Giai đoạn từ 60 trở lên:
Hoàn thành >< sự thất vọng. Tương ứng với tuổi già.
Giai đoạn của sự tổng kết toàn bộ các việc đã làm trong quá khứ, chấp nhận chúng như một sự toàn vẹn cá nhân. Khi con người không chấp nhận tuổi già với quá khứ đã trải qua, họ sẽ thất vọng vì không làm lại được những cái đã qua thuộc về tuổi trẻ. Con người sẽ kết thúc đời mình trong sợ hãi vì cái chết sẽ đến trong nỗi thất vọng không thể làm lại cuộc đời
Ở giai đoạn này, cá nhân có thể ở vào hai cảm giác khác nhau:
1. Cảm giác đã hoàn thành mọi công việc, nghĩa vụ của họ đối với gia đình, xã hội và bản thân
2. Cảm giác thất vọng khi họ cảm thấy về tuổi già còn nhiều điều chưa làm được cho gia đình, xã hội, cho chình bản thân mình
____
Nhà tham vắn cần:
- hiểu rõ đặc điểm của các cơn khủng hoảng trong mỗi giai đoạn phát triển lứa tuổi để giúp thân chủ xác định thân chủ đang ở trong cơn khủng hoảng nào, để có thể ứng phó hài hoà giữa nhu cầu cá nhân và sự đáp ứng xã hội.
- giúp họ vượt qua các cơn khủng hoảng từ lứa tuổi trước, từ đó vạch ra chiến lược trợ giúp họ chấp nhận và vượt qua giai đoạn khó khăn để đương đầu tốt hơn với cuộc sống.
***************
Trích: GIÁO TRÌNH THAM VẤN TÂM LÝ (Trần Minh Đức)
KHỦNG HOẢNG HIỆN SINH (Esistential Crisis)
Khủng hoảng hiện sinh được hiểu như sự thay đổi (đột ngột) dẫn đến lo lắng, băn khoăn, và trăn trở, thậm chí là nghi ngờ hay chối bỏ sự “tồn tại" của bản thân.
Mỗi con người sinh ra và lớn lên đều phải đối mặt với các “cấu phần” trong chính con người của mình.
Trong học thuyết phân tâm nổi tiếng về tính cách của Simon Freud, ông cho rằng tính cách con người rất phức tạp và được cấu thành từ 3 yếu tố: Bản năng (Cái Nó – Id), Bản ngã (Cái Tôi – Ego), và Siêu ngã (Siêu Tôi – Super Ego). Mỗi người từ lúc sinh ra đến khi mất đi đều chịu sự chi phối của 3 thành tố này. Và tuy chúng tồn tại ở mọi con người, ta vẫn chịu sự phi phối của một thành tố khác quan trọng hơn, là cái chết. Đó là thế lực bất khả khuất phục khiến ta phải suy nghĩ về sự tồn tại của chính mình.
Đôi lúc, có người nghĩ về cái chết và sự kết thúc như một lựa chọn, hoặc như một phần tất yếu của sự sống. Chẳng hạn ngày càng có nhiều người trẻ nghĩ rằng: Sống để làm gì rồi cuối cùng cũng chết? Hoặc trong quá trình lớn lên, họ thấy được những xấu xa ích kỷ của “loài người lớn” nên không muốn lớn lên nữa, và họ chọn kết thúc khi còn có thể. Sẽ có những tranh luận rằng: con voi – cái kiến – cây cỏ còn muốn sống, sao con người lại muốn chết? Vậy mà vẫn có nhiều bạn trẻ tự sát, tự kết liễu cuộc đời vì thấy việc sống không còn ý nghĩa, hoặc đã đủ ý nghĩa để “chọn” cái chết.
Không ít lần chúng ta đã tự vấn về: Tại sao tôi tồn tại? Ý nghĩa của sự tồn tại này là gì? Đây chính là nguyên nhân cốt lõi của khủng hoảng hiện sinh. Khi lo lắng và băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống này, chúng ta đặt ra nhiều câu hỏi nhưng đều tựu chung lại 2 chữ: Tại Sao? – Tại sao tôi lại chọn công việc hoặc mối quan hệ này? Tại sao tôi làm hoặc không làm điều này? Hoặc những câu hỏi “Giá như…”, “Phải chi mà…” thể hiện đầy sự luyến tiếc và hối hận về quá khứ và thậm chí có ý định tự sát.
Điều này thường xảy đến khi ta buộc phải thích nghi với những thay đổi nào đó trong cuộc sống, mà chúng ta không biết/ không dám mường tượng/ thậm chí không muốn biết đến kết quả hay hậu quả của nó. Điều này tuy phản ánh khả năng thích nghi của bản thể với môi trường và sự kiện, nhưng cũng cho thấy sâu thẳm trong nội tâm có sự mất cân bằng, thiếu sự an toàn về những “nhân dạng” (identity), những “ràng buộc” (attachment), những “quan hệ” (relationship) giữa các “phần” (parts) trong nhận thức và vô thức, thậm chí cả tàng thức của chính mình. Chẳng hạn như một người vừa ly hôn, một sinh viên không thể tốt nghiệp đại học… Những sự kiện này khiến con người phải nhìn lại và tự vấn về sự tồn tại của chính mình: Mình tồn tại để làm gì? Tại sao những sự việc này lại xảy ra với mình?
Nhưng không có nghĩa là chỉ những sự kiện tiêu cực thì mới tạo ra sự sang chấn tâm lý, mà cả những việc tưởng chừng như hỷ sự cũng có thể tạo ra chấn động tương tự như: kết hôn, thay đổi công việc, thăng tiến, và đặt biệt là có con.
Theo lý thuyết, một cuộc khủng hoảng hiện sinh là sự khởi đầu nhằm truy tìm Lý do, Mục đích, Ý nghĩa, Giá trị của “bản thể”. Đây là quá trình tự tra vấn, một trải nghiệm phức tạp cần thiết về tâm sinh lý của con người để nhìn nhận về “sự tự do” của chính mình.
Nói theo Nietzsche, chúng ta là con Sư Tử không chấp nhận thân phận của con Lạc Đà, bị người khác chồng chất lên lưng những “gánh nặng” ngoài phần “lưng gù” đã hình thành do chính bản thể tạo ra qua tàng thức của tổ tiên. Những “gánh nặng” đó là chính bản thể tự có thông qua tương tác với môi sinh và tự nhận lấy qua nhận thức hạn hữu (những ước mơ của người khác, giáo điều tích luỹ, lề thói xã hội…) lên quyền tự do và ý thức của mỗi cá nhân. Tiến trình nhận thức về sự tự do này sẽ quyết định hành động của chúng ta từ đây về sau. Chính sự khởi đầu này sẽ dẫn đường đến tự do, cách thức “nhận lĩnh” tự do, cách chúng ta chọn cái kết thúc cho cuộc sống, chúng ta sẽ sống trọn vẹn thế nào để cuối đời biết được rằng bản thân đã sống cho một ước mơ chứ không phải vì “một cái gì đó” khác.
_____
Tra vấn & Truy cầu Lý do:
Tiến trình liên tục đặt ra các câu hỏi “Tại sao” gắn chặt với sự hình thành và phát triển của bản thân. Chúng ta khao khát mãnh liệt một câu trả lời cho “thấy" chúng ta tồn tại vì điều gì, được “biết" vai diễn của đời mình hơn là chấp nhận rằng về mặt sinh lý chúng ta chỉ là “kết quả" của hoạt động bản năng và nghĩa vụ dòng tộc. Liệu sự tồn tại của ta có được đón nhận, hay chỉ là một sinh vật chịu sự kiểm soát của đấng sinh thành, của một người nào đó, một thế lực nào đó, một hệ thống nào đó? Liệu chúng ta có quyền gì với bản thân?
Tra vấn & Truy cầu Mục đích:
Đích đến của ta là gì? Nếu hiện hữu là phương tiện thì chúng ta tồn tại để làm gì, hay đi về đâu? Và nếu chúng ta sống để làm điều thiện thì tại sao qua bao nhiêu thế hệ, thế giới vẫn chưa đạt đến đỉnh cao của sự tốt đẹp? Có chăng một thế giới hậu nhân sinh?
Tra vấn & Truy cầu Ý nghĩa:
Chúng ta xây dựng một hay nhiều ý nghĩa cho sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta sợ sự hiện hữu của mình là vô nghĩa, cuộc sống vô vị, nhạt nhoà và không có bất cứ lý do gì để hiện diện. Khi biết ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm giác rằng ta có “linh hồn” hơn là một sinh vật chỉ có tứ khoái, một linh hồn thiêng liêng hơn và cao quý hơn hết thảy. Khi trải qua những giai đoạn chuyển tiếp trong đời người, qua các “khủng hoảng”, chúng ta thường tự vấn về quan niệm sống của bản thân là gì? Tại sao phải đi qua những sự đổi thay này?
Tra vấn & Truy cầu Giá trị:
Giá trị cốt lõi của mỗi người là gì? Khủng hoảng hiện sinh đặt ra câu hỏi là chúng ta cần những Giá trị cốt lõi (Virtues) nào? Những giá trị đó sẽ biện minh cho sự tồn tại của chúng ta thế nào?
______
Yếu tố kích tác – Stimulate/Stimuli,
đóng vai trò quan trọng, nhưng không phải là tương quan tuyến tính. Khi những biến chuyển trong cuộc sống (hôn nhân, có con, thay đổi công việc, người thân mất, sức khoẻ, tuổi tác…) diễn ra, sẽ dẫn đến khủng hoảng hiện sinh hoặc ngược lại. Khi những biến chuyển này xảy ra ở mức độ sâu sắc, một phần hay toàn phần, những thành tố cấu thành danh tính và cấu trúc quy định mối quan hệ của chúng thay đổi, dẫn đến mối tương quan và sự “chấp nhận” của tâm trí về các mối tương quan đó với chính bản thể và thế giới bên ngoài cũng thay đổi theo. Điều đó khiến những cơ chế phòng vệ và các mô thức cảm xúc bị kích hoạt, dẫn tới những căng thẳng, lo lắng, suy nghĩ và những chấn thương tâm lý. Đặc biệt là với cái chết, dù chính bản thân chưa thể nghiệm nhưng tác động của chúng đến những người thân yêu cũng đủ làm cho ta suy nghĩ về cuộc sống – và đây cũng là một trong những chủ đề chính của khủng hoảng hiện sinh.
Tử sinh: Hữu hạn và Vô hạn
Thực tế là ai cũng phải chết, mọi vật đều phải chết. Cái chết là một kết cục được báo trước với toàn thể sinh vật có sự sống. Cái chết bao trùm toàn bộ ý nghĩa cuộc sống, như là một khoảng không vô tận. Chết là hết. Vậy thì sự sống lấy gì để so sánh với cái chết? Đây là một câu hỏi căn bản, câu hỏi làm nền tảng mọi tôn giáo và triết học sự sống.
Trong vở Hamlet, Shakespeare đã từng nói: “What a piece of work is man! How noble in reason! How infinite in faculties! In form and moving, how express and admirable! In action how like an angel! in apprehension, how like a god! The beauty of the world! The paragon of animals! And yet, to me, what is this quintessence of dust?” (tạm dịch: Một phần của công việc là người đàn ông! Lý do thật cao quý! Năng lực thật vô biên! Thiết lập và di chuyển thật nhanh chóng và đáng ngưỡng mộ! Hành động như một thiên thần! Sợ hãi chúa trời! Vẻ đẹp của một thế giới! Tuyệt tác của muôn loài! Nhưng với tôi, hạt bụi tinh hoa này là gì?). Để hiểu ý nghĩa của cát bụi này phải liên hệ với Thánh Kinh, rằng chúng ta là cát bụi thì sẽ trở về với các bụi thông qua cái chết.
Khái niệm khủng hoảng hiện sinh tồn tại trong tư tưởng Tây Phương, hơn là tư tưởng và nếp sống của Đông Phương. Đa số Tôn giáo đều xem cuộc sống của con người là hoàn mỹ hơn cái chết, và ý nghĩa quan trọng nhất của sự hiện hữu là cuộc sống sẽ không mất đi khi thân xác sinh học này chết, nó vẫn tiếp tục. Tất cả tôn giáo và các nền văn hoá trên thế giới đều có khái niệm linh hồn bất tử, và vì vậy văn minh Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, Trung Hoa, Ấn Độ đều có những nghi lễ và biểu tượng về thế giới bên kia.
Trong Thiên Chúa Giáo, đời sống vượt qua cái chết, đời sống vẫn tiếp tục đến vô tận. Sự cứu chuộc đóng vai trò cốt lõi trong giáo lý của Thiên Chúa Giáo và mang lại sự tái sinh. Sự phục sinh của đấng Kito là lời tuyên bố hùng hồn về việc đánh bại cái chết. Bởi Ngài là con của Thượng đế, và chúng ta là con của Ngài nên chúng ta cũng sẽ được phục sinh. Khi Chúa phục sinh, Chúa mang hình hài con người – đây là biểu trưng của sự sống chiến thắng cái chết, biểu thị sự cứu chuộc và giải phóng con người ra khỏi tàn ác bất công, bất hoàn thiện của cuộc sống này. Cái tệ hại nhất của loài người, cái chết, mà chúng ta còn vượt qua được thì những điều bất công, bất hoàn thiện, xấu xa của thế giới (như chiến tranh, bệnh tật, tội ác) cũng có thể vượt qua.
Ở đây cũng đề cập đến thân phận và cuộc sống của con người. Chiều kích thiên đường vượt ra khỏi không gian, thời gian và Trái Đất này, dẫn đến trạng thái bất tử (Enternity Infinity – vô định bất tận), và đó là sự thăng hoa (Sublimation) của thế giới tự nhiên này.
Nói về triết gia, Socrates là trường hợp điển hình. Khi chính phủ buộc ông uống thuốc độc làm từ Hemlock/ Độc cần/ Cần độc, Socrates không sợ hãi mà còn bình tĩnh và vui vẻ đón nhận. Ông cho rằng đây là điều cần thiết để được đoàn tụ với những người đã khuất, với thần linh và những người ông yêu quý. Ông cho rằng thể xác là ngục tù giam giữ linh hồn. Do đó, cái chết sẽ đem lại giải thoát, phá bỏ trở ngại của linh hồn, cho phép ta truy cầu những hiểu biết và cảm thức về mặt chân lý, đức hạnh, sự điều độ và thành tựu về mặt tâm linh.
______
Suy ngẫm về các câu hỏi hiện sinh:
Tất cả những hành vi của chúng ta trong cuộc sống (ăn chơi, tiệc tùng, yêu đương…) có phải để chạy trốn/để quên cái chết hay không?
Việc tạo ra một thứ gì đó, kể cả sinh con đẻ cái, có phải do chúng ta muốn lưu lại một thứ gì đó trước cái chết hay không?
Tại sao chúng ta muốn kéo dài sự hiện hữu của bản thân? Phải chăng vì ta yêu cái đang có? Mà cái chúng ta đang có có thật sự đáng yêu đến mức vậy không?
______
Tự do: Cá thể/ Ràng buộc xã hội
Tự do là gì? Erich Pinchas Fromm (1900-1980), nhà phân tâm học người Đức được đánh giá là đại biểu ưu tú nhất của trường phái Freud mới, cho rằng có 2 loại tự do là Freedom From (Tự do khỏi) và Freedom To (Tự do để).
Freedom From (Negative freedom): Con người phải tự do khỏi vật, tự do khỏi người và tự do khỏi chính mình – tức là không trở thành nô lệ của vật chất, con người và chính bản thân. Trong suốt lịch sử, loài người đều có tham vọng bắt người khác trở thành nô lệ của chính mình. Như khi yêu, chúng ta muốn người khác phải lẽo đẽo theo mình, điều này cho thấy ta đang có ý thức nô lệ hoá người kia, và đó có phải là tình yêu hay không?
Freedom To (Positive freedom): Đây là tự do thể hiện dưới dạng quyền, như quyền được phát biểu ý kiến, đi lại, hội họp.... Trong tiến trình giải thoát bản thân ra khỏi những quyền lực áp chế (bố mẹ, xã hội, nhà trường...), chúng ta thường có cảm giác vô vọng tuyệt vọng. Như trong lĩnh vực Tâm lý học Trẻ em, Alfred Adler cho rằng khi một đứa bé đứng trước người lớn, nó sẽ cảm thấy lo lắng và tuyệt vọng - những truyện cổ tích về người khổng lồ chính là phản ánh vấn đề này. Tiến trình giải thoát bản thân sẽ không bao giờ trọn vẹn nếu ta chưa bước đến được tự do để thay thế những hệ thống quyền lực cũ. Tất cả những cuộc giải phóng dân tộc đều nhấn mạnh vào khía cạnh này.
Nhưng trong tác phẩm kinh điển Escape from Freedom của nhà tâm lý học xã hội Erich Pinchas Fromm, vẫn có trường hợp người ta muốn được/ bị lệ thuộc. Không phải ai trong chúng ta cũng sử dụng được thành công sự tự do của chính mình. Chưa nói đến việc khi thoát ra khỏi những hệ thống cũ, chúng ta lo sợ hơn, cảm giác bị ruồng bỏ, giống như khi bị bạn bè bỏ rơi. Đó chính là nỗi sợ được di truyền từ thời săn bắt hái lượm dưới góc nhìn của Tâm lý học tiến hoá, thà bị ràng buộc hơn là cô đơn.
Hành vi: Chọn lựa/ Trách nhiệm
Chúng ta đều phải đối diện với sự chọn lựa, cả việc không chọn lựa cũng là một sự chọn lựa. Thuyết hiện sinh nhấn mạnh rằng chúng ta đều được tự do lựa chọn trong cuộc sống, và chúng ta phải chịu trách nhiệm với sự lựa chọn này. Với cái chết là kết cục cuối cùng, chúng ta phải nhìn mọi thứ trong toàn cảnh tương quan với cuộc sống. Tự do có thể dẫn đến tuyệt vọng vì trách nhiệm đi kèm này. Chúng ta đều có những giây phút lo sợ khi đưa ra quyết định hoặc lựa chọn, bởi chúng ta sợ sai lầm.
Dưới góc nhìn nhân quả, trong mỗi sự chọn lựa của chúng ta tiềm ẩn nhiều biến số, sẽ phiến diện nếu ta cho rằng một nhân cho ra một quả. Trong mỗi sự chọn lựa đều tồn tại sự mâu thuẫn nội tại (dilema), và không có gì đúng hay sai, đặc biệt là những vấn đề thuộc về đạo đức. Chúng ta có làm gì thuần tuý vì “quả” không? Vậy thật sự chúng ta có tự do không?
Tương quan: Nối kết và cô đơn
Khi sinh ra, chúng ta muốn có sự nối kết với người khác. Theo Erich Fromm, người ta thích cảm giác lên đỉnh (orgasm) bởi khi đó chúng ta biến mất, biên giới của bản thân và ngoại giới không còn tồn tại. Đó là lý do tại sao một số người sử dụng ma tuý, chúng mang đến cảm giác được chạy trốn khỏi cá thể cô đơn. Cũng chính giây phút “quên mình” chúng ta thấy cái hữu hạn trở thành vô hạn.
Để tiếp tục chạy trốn cô đơn, dù trong những giây phút hữu hạn và phù du, chúng ta luôn bận rộn với những ý tưởng về cảm giác đó, tuy nhiên thật sự không thể nào chạy trốn được vào những lúc chúng ta có cảm xúc hay sự nghỉ một cách tỉnh thức.
Khi chúng ta từ khước cô đơn để kết nối với người khác, chúng ta từ khước độc lập.
Thái độ: Vô cảm (đè nén cảm xúc/ hạnh phúc giả)
Nói đến vô cảm từ góc độ văn hoá, tại sao chúng lại xấu xa? Ta phải xét đến đạo đức quy chuẩn, quy ước xã hội, cái mà con người lập ra để giúp xã hội có trận tự.
Cuốn Leviathan (Quái vật/ Thuỷ quái) năm 1652 của Thomas Hobbes là một cuốn sách kinh điển. Leviathan là tên con quái vật biển xuất hiện trong Kinh Thánh Cựu ước (“Isaiah” và “Sách của Job”). Nó to lớn, kỳ quặc, đáng sợ, nhưng quyến rũ và là tạo vật của Chúa. Trong truyền thống Thiên Chúa Giáo, nhiều khi Leviathan được đồng hoá với quỷ Satan. Những tính chất đối nghịch phức tạp của nó tạo cảm hứng lớn cho sáng tác nghệ thuật sau này. Cuốn Leviathan của Hobbes bàn về con người, sự hình thành xã hội và nhà nước lý tưởng – Commonwealth. Hobbes nhìn nhận nhà nước & chính quyền như một con Quái vật (Leviathan) cần thiết để duy trì trật tự xã hội. Tại sao con người không chấp nhận trạng thái tự nhiên như vốn có và độc lập, không chịu kiềm toả và áp lực nào từ trên xuống thông qua các thể chế (không có nhà nước), mà lại bước chân vào đời sống xã hội với đủ thứ luật lệ đi kèm, kể cả nguy cơ của chế độ chuyên chế. Đối với Hobbes, trạng thái tự nhiên là xấu xa. Trạng thái tự nhiên chính là trạng thái chiến tranh, nên cần áp đặt quyền lực nhà nước vào để chấm dứt tình trạng này.
Ông viết “Cái nguyên do cuối cùng, mục đích, ý đồ, mà con người theo đuổi, họ, những người về bản chất yêu tự do và thích được thống trị người khác, khi tự ấn định cho mình những hạn chế để rồi sống trong đó ở các nền cộng hoà, là nhằm được tự phòng vệ và sống hạnh phúc hơn bằng cách đó: nói cách khác là thoát được ra khỏi cái tình trạng chiến tranh khốn khổ đó, cái tình trạng mà tôi đã chỉ ra là hậu quả tất yếu của những dục vọng bản chất của con người, khi không có quyền lực hiện hữu nào giữ yên chúng, trói chúng lại, thông qua nỗi sợ bị trừng phạt” (Leviathan). Nguyên do là vì các luật tự nhiên trái ngược hẳn với các dục vọng tự nhiên của chúng ta – thiên vị, kiêu ngạo, thích trả thù... Hobbes không chấp nhận trạng thái đó, vì nếu không có xã hội và những điều đi kèm, thì con người chỉ có thể sống trong đau khổ, chém giết, và nghèo khổ.
Trong lý thuyết phát triển đạo đức của Kohlberg, sự phát triển đạo đức trải qua ba cấp độ: Tiền quy ước, Thông thường và Sau thông thường. Quan trọng là không phải ai cũng trải qua tất cả các giai đoạn và đều đến mức phát triển cuối cùng. Trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển đạo đức, sự phục tùng và trừng phạt là đặc biệt phổ biến ở trẻ nhỏ, nhưng người lớn cũng có thể xuất hiện dạng suy luận này.
Ở giai đoạn 1 – Tiền quy ước: Con người ta thấy những quy tắc luôn mang tính cố định và chuẩn chỉnh. Tuân theo những quy tắc này là vô cùng quan trọng vì nó là công cụ giúp ta tránh khỏi bị trừng phạt. Ở những nền văn hoá cá nhân và trong giai đoạn chuyển đổi của sự phát triển đạo đức, trẻ hình thành những quan điểm và phán đoán cá nhân dựa trên cách chúng đáp ứng những nhu cầu của bản thân.
Ở cấp độ 2 – Đạo đức quy ước, thường được gọi là định hướng “Con ngoan trò giỏi”: Tập trung vào việc sống làm sao để đáp ứng được kỳ vọng và quy tắc của xã hội. Giai đoạn này nhấn mạnh vào sự tuân thủ, hành xử “tử tế” và cân nhắc ảnh hưởng của những quyết định do bản thân đưa ra lên các mối quan hệ. Ở giai đoạn này, con người ta bắt đầu coi xã hội là một khối tổng thể khi đưa ra những nhận định. Tâm điểm ở đây là duy trì luật lệ và trật tự xã hội bằng cách làm theo quy tắc, hoàn thành chức trách của bản thân và tôn trọng tầng lớp cầm quyền.
Ở cấp độ 3 – Đạo đức hậu quy ước: Những ý tưởng về một khế ước xã hội và quyền của từng cá nhân khiến con người ta bắt đầu hình thành những giá trị, ý kiến và niềm tin về người khác trong giai đoạn này. Cấp độ cuối cùng trong chuỗi suy luận về đạo đức của Kohlberg dựa trên những nguyên lý đạo đức tổng quát. Quá trình suy luận trừu tượng nhận thấy con người ta làm theo những nguyên tắc nội tại trong họ về tính công bằng, thậm chí ngay cả khi họ có xung đột với những quy tắc và luật lệ ngoại tại. Cao hơn nữa, chúng ta có thể thấy những vĩ nhân như Gandhi, Luther King đã đấu tranh vì giá trị, niềm tin nội tại và không chịu ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài.
Con người vô cảm còn có khả năng là vì đã “tập nhiễm sự bất lực” (learned helplessnes). Bất lực tập nhiễm hay bất lực do học được là hành vi được biểu hiện ra bên ngoài của một đối tượng sau khi đã chịu đựng những kích thích thù địch, trái với ý muốn hoặc gây khó chịu mà được lặp đi lặp lại ngoài tầm kiểm soát của đối tượng này. Ban đầu, người ta cho rằng nguyên nhân là do đối tượng chấp nhận sự bất lực này bằng cách ngừng cố gắng trốn thoát hoặc tránh các kích thích thù địch, bất lợi, khó chịu, ngay cả khi có các lựa chọn thay thế một cách rõ ràng. Khi thể hiện hành vi như vậy, đối tượng được cho là đã học được sự chịu đựng một cách bất lực (ví dụ hiệu ứng chú voi bị cột vào gốc cây, muôn thú chán nản trong vườn thú khi cố gắng trốn không được). Sự bất lực tập nhiễm là một tư duy được khám phá bởi nhà tâm lý học Martin Seligman và Steven F. Maier khi họ quan sát hành vi ở cả động vật và con người. Ông làm nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này và phát hiện ra rằng sự bất lực có điều kiện có thể được áp dụng lên con người và nó thậm chí có thể xảy ra ngay từ khi con người vừa sinh ra.
Để tìm hiểu hiện tượng này, các nghiên cứu viên sau đó đã thực hiện thêm một thí nghiệm khác sâu hơn thay vì chỉ quan sát, họ đã chia một nhóm nhiều chú chó con thành 3 nhóm:
Nhóm 1: được nhốt vào buồng chứa nhưng không bị sốc điện. Các chú chó bị bắt mặc đai yếm (yoked pairs) trong một khoảng thời gian và sau đó được cởi ra.
Nhóm 2: được nhốt vào buồng chứa và bị sốc điện, nhưng có thể thoát được bằng cách lấy mũi nhấn vào một bảng điều khiển. Các chú chó trong nhóm thứ hai cũng được mặc cùng bộ đai yếm.
Nhóm 3: được nhốt vào buồng chứa và bị sốc điện, nhưng không có cách nào thoát ra được. Đối với nhóm này, việc sốc điện được thực hiện hoàn toàn không theo quy luật và nằm ngoài tầm kiểm soát của chủ thể.
Tất cả những chú chó này sau đó bị nhốt trong một chiếc hộp cửa chớp. Nhóm một và nhóm hai nhanh chóng học được cách nhảy qua hàng rào nhỏ để không bị sốc điện. Còn nhóm thứ ba lại không mảy may nỗ lực cố gắng thoát khỏi cú sốc. Vì trải nghiệm học được trước đó, chúng đã hình thành một mong đợi về mặt nhận thức rằng chúng không thể làm được gì để ngăn ngừa hoặc loại bỏ các cú sốc điện lên mình. Các chú chó ở nhóm 3 dựa trên kinh nghiệm trước đó để quyết định sự cố gắng trong tương lai, và bởi những lần cố gắng trước đó đều không thành công nên các chú không thèm thử nữa.
Thái độ: Chân thực (authenticity)
Trung thực với những giá trị của chính mình là chìa khoá dẫn đến hạnh phúc. Sống là phải hiện hữu và chịu trách nhiệm với những quyết định của chính mình, phải chịu được sự cô đơn.
Để hạnh phúc, chúng ta cần là một đứa trẻ, cần có cảm thức tự do, sống trong hiện tại và yêu quý thực tại.
Theo tư tưởng của Nietzsche, siêu nhân là những con người đã thực sự đạt tới tự do và tự chủ cao nhất. Họ biết rõ những điều bản thân suy nghĩ và hành động, chứ không như đám “tiện dân” thường có khuynh hướng hùa theo nhau, dựa dẫm vào nhau “ngay từ ban sơ, ôm giữ sự vô minh chán chường để còn có thể hân thưởng những sự tự do, vô tư, vô tâm, nhiệt tình… hầu như không thể hiểu nổi”. Đây là thái độ sống theo kiểu “người ta”, đánh mất đi tính đặc sắc của mình, con người bị phóng thể theo ý nghĩa sống vong thân. Họ không sống cho mình mà là sống cho cái khác, người khác. Người ta sống sao mình sống vậy, người ta bảo sao mình làm vậy. Siêu nhân phải thoát ra, phải tránh thật xa tình trạng này “hãy chọn một chỗ đứng thật cô độc, một sự cô độc tự do, tự tại nhẹ nhàng nào đó mà có thể ban cho các ngươi cái quyền còn có thể hiện diện hoạt tồn”. Vì kẻ có tinh thần tự do “là kẻ suy tưởng khác hẳn với những điều mọi người chờ ở hắn căn cứ vào cội rễ, vào liên hệ, vào địa vị, vào việc làm của hắn và các lý tưởng thống trị của thời đại”. Chỉ khi tránh xa đám dân ti tiện, ra khỏi tinh thần nô lệ, siêu nhân mới có cơ hội “trở thành ngoại lệ”, mới có thể sống tự do “khi người ta tự huỷ, người ta đã làm một việc đáng kính trọng nhất: người ta gần như xứng đáng được quyền sống vì đã làm thế”, thoát khỏi mọi ràng buộc nhảm nhí để “ánh lên trong mọi sắc thái của điêu linh”. Siêu nhân phải là người sống tự giác, trưởng thành, đạt đến tự do hoàn toàn, không còn sợ hãi hay bị ràng buộc bởi bất kỳ thế lực nào – “đó là đặc quyền của kẻ mạnh”. Tinh thần này vượt lên mọi chật hẹp, nhỏ nhoi, riêng rẽ.
Trong cuốn Zarathoustra đã kể về một ngụ ngôn sau: Tinh thần con người lần lượt là con lạc đà, con sư tử và đứa trẻ con. Tinh thần bị cái khắc nghiệt thống trị chính là con lạc đà. “Có gì nặng nề hơn nữa không! Tinh thần tráng kiện hỏi như vậy và nó quỳ xuống như con lạc đà, nó muốn tải nặng”. Rồi đến giữa sa mạc, tinh thần hoá thân thành con sư tử. “Nó muốn chinh phục tự do, làm chủ sa mạc riêng tư của mình”… Sau cùng tinh thần biến thành đứa trẻ. “Đứa trẻ thì trong trắng và hay quên, một hồi sinh, một trò chơi, một bánh xe tự quay, một chuyển động đầu tiên, một chấp nhận muôn thuở”. Đứa trẻ tượng trưng cho tinh thần con người đã tìm lại được cái trong trắng, vô tội và có khả năng sáng tạo một đức hạnh mới. Đức hạnh mới này khác biệt với đức hạnh cũ ở điều nó khẳng quyết hơn là phủ định: Nó nói tiếng ừ với trần gian, với cuộc đời. Không có thế gian nào ngoài thế gian này. Không có giá trị nào gắn liền với cái chi không hiện hữu ở thế gian này. Trước tiên, ta phải là “người đồng loại tốt của vật đồng loại ở trần gian”. Đây chính là một cứu chuộc mới: Thực tại được cứu rỗi, chuộc khỏi lời nguyền mà lý tưởng xưa đã đè nặng lên nó.
Tóm lại, để hạnh phúc, chúng ta cần là một đứa trẻ, cần có cảm thức tự do, sống trong hiện tại và yêu quý thực tại.
Tiến sĩ Lê Nguyên Phương tại chương trình Dentsu Redder Impact Academy.
Hiện ông là chuyên gia Tâm lý học đường của Học khu Long Beach và giảng viên của chương trình cao học bộ môn Tâm lý học đường tại Đại học Chapman (Hoa Kỳ).
Dentsu Redder Impact Academy
Wider Perspectives, Richer Souls, Better Humanity
Khi CDC (Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh) công bố tỉ lệ tự sát đã tăng trong hai thập kỷ qua ở hầu hết tiểu bang của Hoa Kỳ - ở một nửa số bang tỉ lệ này tăng đến 1/3 – nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra nhằm tìm được chính xác điều gì dẫn đến số liệu thống kê như vậy. Một số người cho rằng những gì chúng ta đang chứng kiến là kết quả của một sự khủng hoảng hiện sinh đang ám ảnh xã hội của chúng ta.
Những giả thuyết phổ biến nhất được dùng để giải thích cuộc khủng hoảng này là:
1. Sự suy tàn của tôn giáo.
2. Sự thiếu hụt tính cộng đồng
3. Sự khan hiếm những công việc thực sự có mục đích.
Tất cả những yếu tố này đều có tính thuyết phục cao và góp phần rất lớn vào cuộc khủng hoảng hiện sinh thời hiện đại, nhưng tôi không hoàn toàn tán đồng với những lời giải thích ấy: chúng không phù hợp với những trải nghiệm cá nhân của tôi.
Tôi theo Đạo, tôi thực hành những nghi lễ đức tin giúp tôi trả lời những câu hỏi lớn trong cuộc sống. Nhà thờ mà tôi tham gia đáp ứng mọi tiêu chuẩn về một cộng động lành mạnh. Tôi có một gia đình hạnh phúc, một nhóm bạn thân và trò chuyện với họ thường xuyên. Tôi cũng rất hài lòng với công việc của mình và cảm thấy rằng nó là một công việc có mục đích.
Đáng lý cuộc sống của tôi sẽ là hình mẫu chuẩn của một cuộc sống có ý nghĩa… nhưng tôi vẫn trải qua nỗi đau tột cùng của đau khổ hiện sinh. Tôi không nói về chứng trầm cảm hay những bất hạnh. Những trăn trở hiện sinh có thể dẫn đến trầm cảm hay tự tử, nhưng nghịch lý là nó cũng có thể song hành cùng hạnh phúc. Thực tế, hạnh phúc có thể làm trầm trọng hóa vấn đề của khủng hoảng hiện sinh: “Tôi khá là hạnh phúc… vì sao tôi vẫn cảm thấy bất mãn?”
Sự đau khổ hiện sinh có thể được tìm thấy trong những câu hỏi như:
“Ý nghĩa của điều này là gì?”,
“Mục đích của tất cả là gì?”,
“Mọi thứ là để làm gì vậy?”,…
Đó là cảm giác làm một người xa lạ ở một vùng đất xa lạ. Cảm giác lạc lõng, tựa như linh hồn của bạn không ở trong cơ thể. Cảm giác không biết điều gì là chân thật trong một thế giới dường như được xây nên từ giả dối.
Nếu sự suy tàn của tôn giáo, cộng đồng và mục đích không giải thích được những vấn đề trên, thì điều gì có thể?
Chúng tôi có một vài giả thuyết như sau về sự bắt nguôn của đau khổ hiện sinh:
---
Nguồn: Trạm đọc
The Art of Manliness
CỘNG ĐỒNG VÀ LỐI SỐNG
Lý do mà các cộng đồng hiện đại, giàu có với các giá trị truyền thống và tập quán chung không phải là liều thuốc giúp làm dịu đau khổ hiện sinh là vì chúng là không gian mở.
Bạn có thể cảm thấy gắn kết với nền văn hóa được chia sẻ trong cộng đồng của mình, nhưng bạn luôn ý thức được rằng hàng triệu người ở bên ngoài cộng đồng không cùng sẻ chia điều đó. Có những lựa chọn khác, những lựa chọn thay thế, những nguyên tắc và niềm tin khác giúp bạn xây dựng cuộc sống. Ở đâu có sự lựa chọn, ở đó có FOMO (Fear of missing out – Nỗi sợ bị bỏ lại). Bạn có chắc mình đã chọn đúng không?
Khi quyết định mình có nên thuộc về một cộng đồng tôn giáo hay không, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một “thời điểm đa dạng và áp lực”, James K.A. Smith viết, “nơi tín đồ bị bao vây bởi sự nghi ngờ và những kẻ nghi ngờ, và lâu lâu lại cảm thấy tin những điều đó.”
Bởi vì tín đồ và những người không thật sự có đức tin sống trong cùng một địa phương, những lối sống và hệ thống đức tin khác nhau liên tục ảnh hưởng qua lại, nên mỗi nhóm thường xuyên phải chịu những “áp lực chéo”.
Những người theo đạo bị vây quanh bởi những người không có nhu cầu về đức tin và những ràng buộc đi kèm với đức tin. Họ buộc phải tự hỏi liệu những kẻ ngoại đạo này có thật sự kém hạnh phúc hơn vì cuộc sống của họ xoay quanh những dự án cá nhân thay vì Chúa hay không. “Dù tôn giáo đã tồn tại từ lâu,” Smith viết, “niềm tin không xuất hiện dễ dàng. Đức tin bị thách thức liên tục. Chúng ta không nghi ngờ, mà chúng ta không tin, hoặc vừa tin vừa nghi ngờ.”
Những người không theo đạo cũng trải nghiệm điều tương tự. Ngay cả những người vô thần cũng thi thoảng muốn một điều gì siêu việt hơn. Anh ta có thể thừa nhận một cách lý trí một số lợi ích mà đức tin mang lại, nhưng sẽ không thay đổi suy nghĩ của mình để trải nghiệm chúng. Ernest Hemingway có một giai đoạn không còn tin vào tôn giáo. Một nhà viết tiểu sử miêu tả ông lúc ấy như sau: “Ông ấy nhung nhớ sự ủi tinh thần của tôn giáo như một người đàn ông vừa lạnh vừa ướt đang muốn uống một cốc whiskey ngon.”
Tất nhiên những áp lực chéo này không chỉ diễn ra giữa tín đồ và những người không có đức tin. Mạng xã hội cho phép chúng ta thấy một cách đủ đầy và sống động những phong cách sống khác. Bạn nên tập thể dục kiểu đó hay kiểu này? Ăn kiêng kiểu một hay kiểu hai? Sống ở đây hay ở đó? Làm chủ hay làm nhân viên? Dù bạn chọn con đường nào, chúng ta đều trông thấy những dấu hiệu đang vẫy gọi ta ở những con đường khác.
Chúng ta bị ám ảnh bởi những khả năng, bởi câu hỏi liệu chúng ta có sống đúng hay không và liệu người khác có đang sống tốt hơn hay không. Cỏ bên kia đồi luôn xanh hơn và trong thời hiện đại, dường như cỏ ở mọi hướng đều tươi tốt.
ANOMIE - TRẠNG THÁI VÔ CHUẨN MỰC
Vào đầu thế kỷ 20, nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim đã thực hiện một cuộc khảo sát nhằm tìm ra những yếu tố nào gây ảnh hưởng nhất đến tỉ lệ tự tử tại một quốc gia. Ông phát hiện ra chỉ số này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi một sự hiện diện trong xã hội mà ông gọi là anomie.
Anomie, nghĩa là “không luật lệ” trong tiếng Đức và tiếng Pháp, được Durkheim định nghĩa là trạng thái “vô chuẩn mực” – sự không có quy tắc chung, tiêu chuẩn chung hay giá trị chung. Đó là một khái niệm mô tả rất rõ bối cảnh của xã hội hiện đại. Trong một cộng đồng nhỏ, dường như tất cả mọi người đều có chung một nền văn hóa. Nhưng khi nhìn rộng ra thế giới, không có giá trị chung nào được sẻ chia cả.
Hậu quả nguy hiểm của trạng thái vô chuẩn mực có thể là tự sát, nhưng nó cũng khiến những người đang sống liên tục cảm thấy lo lắng và trống rỗng. Có hai lý do cho việc này:
Chuẩn mực tạo nên một hệ quy chiếu để bạn đánh giá mình đang ở đâu. Tự do cá nhân mà không có bất kỳ hướng dẫn, tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng nào mang đến cảm giác trôi nổi trong không gian sâu thẳm. Sự không trọng lượng ban đầu sẽ mang lại cảm giác phấn thích đấy, nhưng khi không có hệ quy chiếu để biết mình ở đâu, trên dưới trái phải đều vô nghĩa.
Bạn có nhiệm vụ tạo ra các quy tắc, giá trị và kỳ vọng của riêng bạn – ý nghĩa cá nhân của bạn đối với thế giới. Tuy nhiên, dựa vào những tiêu chuẩn do chính bạn định ra để định hướng cuộc sống là một chuyện vô cùng khó khăn. Chúng bắt nguồn từ chính bạn chứ không được thừa nhận bởi những người khác.
Sự thiếu vắng chuẩn mực không chỉ xóa đi những khuôn mẫu để bạn đánh giá cách sống của mình mà còn loại bỏ rào cản để bạn chống lại. Một xã hội có chuẩn mực không chỉ cung cấp ý nghĩa tồn tại cho những người tuân theo nó mà còn cho cả những người chống lại nó. Việc đẩy lùi tiêu chuẩn xã hội mang đến cảm giác có ý nghĩa to lớn – điều chỉnh kỳ vọng, trở thành cá thể độc nhất, tạo nên một nền văn hóa ngầm,…
Nhưng ngày nay có rất ít văn hóa chính thống để bạn nổi dậy chống lại. Vẫn có một số kỳ vọng đấy, nhưng tư tưởng ngự trị là “sống và hãy sống.” Bạn có thể kết hôn ở tuổi 20 hoặc 40 hoặc ở giá đến cuối đời. Bạn có thể sống với ai đó cả đời mà không cần hôn thú, có 9 đứa con hoặc không có đứa nào, mặc bất kỳ thứ gì bạn thích mà không ai ý kiến, hẹn hò với một người không cùng sắc tộc, xỏ khuyên bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể, có một đứa con ngoài giá thú mà không bị xa lánh, đi làm, không đi làm, hoặc bắt đầu học đại học ở tuổi 50. Bạn gần như có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn, miễn là không vi phạm pháp luật và tuân theo một số quy tắc xã hội tối thiểu.
Mặt phải của anomie là không ai quan tâm bạn làm gì.
Và đương nhiên đó cũng là mặt trái.
CỐ Ý QUAN TRỌNG HÓA VẤN ĐỀ
Thời kỳ hiện đại ngày nay không chỉ gây “khó khăn” dưới dạng những chuẩn mực xã hội, mà còn dưới dạng những thử thách hiện sinh thực sự.
Cuộc sống ở phương Tây nhìn chung rất yên bình và thoải mái. Chúng ta không bị lôi kéo vào chiến tranh thế giới. Nghèo đói vẫn hiện diện, nhưng nó không phải vấn đề lớn của thập kỷ vừa qua. Nhiều loại bệnh đã được diệt trừ. Số lượng phạm tội giảm xuống. Công nghệ khiến việc kết nối trở nên dễ dàng hơn và mang lại rất nhiều tiện ích khác. Như Stephen Pinker lập luận, thời hiện đại đã “mang lại nhiều tiến bộ vượt bậc cho sự hưng thịnh của loài người.”
Trong bối cảnh hòa bình và thịnh vượng này, nhiều vấn đề lớn đã được giải quyết, và chúng ta có “sự xa xỉ” để tập trung vào những điều nhỏ hơn. Thế nên ta mới có nền văn hóa bắt chẹt từ ngữ để xác định dùng từ như thế nào là xúc phạm và các hành vi gây hấn nhỏ.
Chúng ta tham gia vào những cuộc chiến nhỏ hơn chiến tranh nhưng gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng chẳng kém. Có một khoảng cách lớn giữa việc chúng ta muốn cuộc chiến như thế nào và cảm giác nó thật sự mang lại. Chúng ta khao khát được thực hiện một thử thách hoành tráng nhưng cuối cùng nhận ra chúng ta đang quá an toàn để thực hiện điều đó.
Kết quả là ta tự mình nâng cao cảm giác ấy – bóp méo câu chuyện thành một thứ gì nguy hiểm và có tính đe dọa hơn, hấp dẫn hơn nó vốn có. Do đó ta có trào lưu sách và phim về ngày tận thế và xuất hiện niềm tin rằng chúng ta đang sống trong một thời kỳ hỗn loạn chưa từng có. Có một niềm vui ẩn sau niềm tin rằng mình đang sống trong thời kỳ tồi tệ nhất. Dường như sống trong một thời đặc biệt khiến một cá nhân trở nên đặc biệt.
Tuy nhiên ảo tưởng này không đủ để tạo ra một ý nghĩa lâu dài. Như hình ảnh phản chiếu biến dạng của nhà gương, trông chúng vui đấy, nhưng chỉ giúp bạn giải trí được một lát thôi.
TỰ Ý THỨC MỘT CÁCH MÉO MÓ
Từ nhiều thế kỷ trước, Shakespeare đã nói: “Mọi thế giới là một vở tuồng.” Từ lâu mọi người đã nhận thức được là họ luôn bị người khác theo dõi.
Nhưng chưa bao giờ sân khấu ấy có sức lan tỏa mạnh mẽ như bây giờ.
Đã từng có một thời bạn chỉ thấy một phần rất nhỏ của những người trong vòng xã hội của bạn. Bạn chỉ thấy họ ở nơi làm việc hoặc ở những buổi tụ tập, cuộc sống cá nhân của họ như một chiếc hộp bí ẩn. Bạn hiếm khi thấy ảnh đi chơi của đồng nghiệp hoặc của những người họ hàng xa. Bạn cũng không thấy ảnh họ đi chơi với con, ăn tối bên bạn đời, ảnh cả bố và mẹ bên đứa trẻ mới sinh,…
Đã từng có một thời như thế. Những bức ảnh nằm trong album cá nhân và chỉ một số ít người trong gia đình mới có thể nhìn thấy. Vì thế bạn không cần phải tạo dáng hoặc cố tỏ ra hoàn hảo trong mỗi khung hình.
Ngày này là một câu chuyện rất khác. “Album cá nhân” của bất kỳ ai cũng để mở cho mọi người trên mạng xã hội. Nó tạo áp lực rằng bạn phải “diễn”, phải “chỉnh sửa” để có thước phim hoàn hảo nhất và rực rỡ nhất. Ngay khi vừa sinh con xong, một người mẹ phải cười và tạo dáng cho bức ảnh bế con mà cô ấy sắp sửa đăng Instagram.
Ngay cả khi bạn không đăng những tấm ảnh đẹp nhất của mình thì việc xem ảnh chụp của người khác cũng phần nào thay đổi cách nhìn của bạn về bản thân. Bạn không thể không tự hỏi cuộc sống của mình được đo đạc như thế nào. Bạn không thể không nghĩ về cách nó trông như thế nào với những người quan sát bên ngoài. Càng ngày ta càng nhìn bản thân từ góc độ của một người đứng xem. Chúng ta bắt đầu để ý xem cuộc sống của mình trông có thú vị và mạo hiểm trong mắt người khác hay không. Ý thức này chỉ mới xuất hiện từ đầu thế kỷ này, thứ mà chúng tôi gọi là “sự tự ý thức méo mó.”
HÌNH ẢNH PHẢN CHIẾU KHÔNG CHÂN THẬT
Trong phần lớn lịch sử, phương tiện truyền thông nằm trong tay những người ưu tú. Nếu bạn muốn ý kiến của mình được công khai rộng rãi, bạn phải đạt được những thành tựu nhất định. Nếu bạn muốn xuất hiện trên radio hoặc TV, bạn phải được chương trình mời. Nếu bạn muốn xuất bản sách, bạn phải ký được hợp đồng với nhà xuất bản.
Có thể những việc này đi ngược tính dân chủ, nhưng chúng đảm bảo rằng nội dung được truyền bá đã được kiểm duyệt trước. Thời nào cũng có tin rác cả thôi, tuy nhiên những bộ lọc này phần nào đảm bảo những gì ta được xem, được nghe, được đọc đã được kiểm tra bởi những người có năng lực, có giáo dục, có kinh nghiệm,…
Kết quả là nội dung cộng đồng mang đến cho khán giả một cái nhìn truyền cảm hứng về tiềm năng của con người. Họ tạo nên một tấm gương phản chiếu những hình ảnh đẹp đẽ mà Shakespeare có thể nói rằng:
“Con người là một tuyệt tác! Lý trí mới cao quý làm sao! Các khả năng là vô tận! Những hình thức và chuyển động thật đáng khâm phục. Hành động giống một thiên thần. Sự lĩnh hội lại như một vị thánh.”
Chính khách người Anh William Gladstone bổ sung thêm:
“Con người là kỳ quan của tạo hóa. Nghiên cứu về loài người cũng là nghiên cứu cao quý nhất.”
Và bộ trưởng Theodore Parker nói:
“Con người là sản phẩm đáng giá nhất trong tiến trình lịch sử của mình. Một nhà khám phá sẽ tìm ra không có gì cao cả và vĩ đại bằng chính anh ta, không có gì đáng giá bằng anh ta. Ngôi sao vĩ đại nhất là ngôi sao khó thấy nhất bằng kính thiên văn, ngôi sao đang nhìn bạn, chứ không phải bị bạn nhìn.”
Thời đại kỹ thuật số xóa bỏ mọi rào cản, tiếng nói của bất kỳ ai đều có thể được lắng nghe. Chúng ta bị vây quanh bởi một loạt nhận xét, phản hồi và ý kiến chói tai – rất ít trong số đó được kiểm tra, nghiên cứu và cân nhắc kỹ trước khi đăng tải. Thay vào đó, nó là sản phẩm của những cảm xúc nhất thời theo kiểu phản xạ. Nó là sản phẩm từ ID chứ không phải từ bản ngã của chúng ta.
Giờ đây hình ảnh phản chiếu của con người trong tấm gương xã hội không phải là một hình ảnh đẹp đẽ, thậm chí còn là một hình ảnh có thể làm ta bất giác lùi lại. Thay vì phản chiếu độ cao mà con người có thể đạt đến, nó lại phản chiếu hố sâu mà anh ta có thể rơi vào. Đây là con người với những gì nguyên sơ và bản năng nhất.
MỘT LƯỢNG LỚN THÔNG TIN KHÔNG HÀNH ĐỘNG
Một hệ quả khác của việc sống trong một thế giới không có bộ lọc là lượng thông tin nhỏ giọt được kiểm duyệt năm xưa đã trở thành cơn đại hồng thủy thông tin không thể kiểm soát.
Như chúng tôi đã nói ở trên, có rất nhiều thông tin về lối sống bạn có thể theo đuổi – về nơi đi du lịch, nơi sống và nghề nghiệp tiềm năng. Có vô số danh sách ưu và nhược điểm của hình thức tập thể dục này và chế độ ăn kiêng nọ. Có sẵn lập luận và phản biện đầy đủ cho mọi niềm tin.
Tuy nhiên, không có sự thúc đẩy mang tính hành động nào đối với những thông tin này cả. Bạn có thể tìm thấy nguồn tài nguyên thông tin vô tận, nhưng ít ai có thể chỉ cho bạn rằng bạn nên chọn thế nào. Bạn có thể tìm thấy những mẹo và thủ thuật để cải thiện cuộc sống của mình nhưng lại khó mà áp dụng chúng để thành công trong thực tế.
Trong khi thông tin có sẵn đang bùng nổ theo cấp số nhân thì việc bắt tay thực hiện – một vấn đề thuộc bản chất cơ bản của con người – vẫn không thay đổi. Nhiều thông tin hơn không có nghĩa là hành động dễ dàng hơn. Do có sự không khớp giữa suy nghĩ và hành động, cảm giác FOMO tăng lên và càng làm ta bồn chồn khủng khiếp.
SỐNG VỚI ĐAU KHỔ HIỆN SINH
Vì thế cuộc sống hiện đại ở phương Tây chúng ta có một nghịch lý. Chất lượng cuộc sống của ta tăng lên, nhưng sức khỏe tinh thần lại giảm xuống. Cuộc sống trở nên an toàn hơn, lành mạnh hơn và dễ dàng hơn – nhưng tỉ lệ trầm cảm, rối loạn lo âu và tự tử lại không ngừng gia tăng.
Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng sự thật là mọi người muốn nhiều hơn sự thoải mái và sự tiện nghi – họ muốn một cuộc đời có ý nghĩa và có giá trị, những phẩm chất khó mà định nghĩa được trong thời đại của chúng ta.
Vậy ta nên làm gì?
Chà, mặc dù tôi không nghĩ những thứ như tôn giáo, cộng đồng và mục đích (kể cả mục đích nghề nghiệp và những mục đích khác) mang trong mình câu trả lời, nhưng chúng có thể bảo vệ ta khỏi sự trống rỗng của đau khổ hiện sinh thời hiện đại. Trong một thế giới tưởng chừng vô nghĩa chúng giúp ta cảm thấy có ý nghĩa phần nào.
Tham gia một vài thử thách cũng là một giải pháp. Dù cuối cùng chúng không đáp ứng được mong muốn thực hiện một nhiệm vụ vẻ vang, chúng vẫn tạo nên những điểm nhấn lành mạnh trong cuộc sống – những cột mốc trong trạng thái vô trọng lượng. Bạn nên làm một điều gì đó hơn là để tất cả mọi thứ tê liệt.
Dù bạn có làm gì cũng không có cách nào xoa dịu sự đau khổ hiện sinh. Nó có thể đẩy người ta đến mức từ bỏ cuộc sống này, nhưng chính bản thân nó cũng là một thử thách. Mong muốn liệu bạn có đang sống đúng hay không, tìm ra bạn là ai và bạn đang ở đâu, và ý nghĩa của con người là gì,… tất cả đều là đặc quyền của sự sống.
Bạn không biết:
Khi nào mình nên đến gặp một chuyên gia liệu pháp tâm lý ?
Sự khác biệt giữa một chuyên gia liệu pháp tâm lý và bác sĩ tâm lý...?
Làm thế nào để lựa chọn một chuyên gia liệu pháp tâm lý ?
Xung quanh việc trả phí một dịch vụ đồng hành tâm lý ?
___
Các thông tin trong chuyên mục này đều chỉ mang tính tham khảo
Bạn (còn) có tâm sự, thắc mắc ... muốn gửi cho Sophro Pháp Việt?
Đây là: NƠI BẠN VIẾ