Các thông tin dưới đây chỉ có tính tham khảo,
không có chức nãng chuẩn đoán lẫn điều trị
Các thông tin dưới đây chỉ có tính tham khảo,
không có chức nãng chuẩn đoán lẫn điều trị
Trầm cảm là một rối loạn thường gặp liên quan đến khí sắc trầm buồn sâu sắc, và/hoặc gần như bàng quang, không còn quan tâm, thích thú trong các hoạt động ưa thích cũng như các hoạt động sinh hoạt thường nhật, cô lập bản thân và mất hết niềm vui sống
Có các biểu hiện rõ ràng về thể chất
(thay đổi cân nặng, rối loạn giấc ngủ, bơ phờ mất sức sống, đau yếu không rõ nguyên nhân...)
và các biểu hiện tinh thần, nhận thức
(rối loạn cảm xúc, khó tập trung, đãng trí, quên lãng, u sầu, trống trải, cô đơn, tuyệt vọng ...)
Có thể gây suy giảm đáng kể khả năng học tập, làm việc, và các tương tác xã hội, dẫn tới nguy cơ tự sát đáng kể
Chẩn đoán dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng; rối loạn thể chất phải được loại trừ bằng cách đánh giá lâm sàng và xét nghiệm chọn lọc (ví dụ, CBC, chất điện giải, TSH, B12 và folat).
Điều giảm: các liệu pháp tâm lý và|hoặc kèm theo thuốc
ĐỊNH NGHĨA CHUNG
ĐẶC TRƯNG ĐIỂN HÌNH
Trong trầm cảm, cảm giác tiêu cực, sự suy sụp mất tinh thần và đau buồn chán nản :
Xuất hiện có hoặc không có xu hướng gắn liền với suy nghĩ hoặc nhắc nhở về sự kiện đau buồn
Kéo dài và lặp lại ngay cả khi hoàn cảnh hoặc sự kiện đã được cải thiện
Có thể xen kẽ với những giai đoạn cảm xúc tích cực, nhưng nhanh chóng chìm xuống sự mất tinh thần và thương tiếc
Thường có đi kèm với cảm giác vô dụng và tự ghê tởm
Trạng thái giảm khí sắc kéo dài nhiều ngày, hàng tuần, hoặc hàng tháng
Mất chức năng sống thông thường
Có suy nghĩ, lập kế hoạch, thực hiện hành vi tự sát
Một số sự kiện và căng thẳng gây ra sự mất tinh thần và thương tiếc lớn lao có thể dẫn tới trầm cảm dai dẳng, thường với những người quá mẫn cảm, dễ bị tổn thương, hoặc có tiền sử hoặc tiền sử gia đình trầm cảm.
Đau buồn dai dẳng và tàn phế còn có thể dẫn tới rối loạn đau buồn kéo dài và sẽ cần tới sự điều trị đặc biệt.
MỘT SỐ HẬU QUẢ
Trầm cảm gây ra các rối loạn nhận thức, tâm thần vận động và các dạng rối loạn chức năng khác
tập trung kém, mệt mỏi, kiệt quệ, rối loạn giấc ngủ, overthinking...
mất giảm ham muốn tình dục, mất hứng thú hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động trước đây...
tâm trạng chán nản, mất động lực sống ...
Trầm cảm thường đi kèm theo các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần khác (như các cơn lo âu, hoảng loạn...), đôi khi làm phức tạp thêm việc chẩn đoán và điều trị.
Người mắc rối loạn trầm cảm có nhiều khả năng lạm dụng rượu hoặc các loại thuốc khác để cố gắng tự điều trị chứng rối loạn giấc ngủ hoặc các triệu chứng lo âu. Tuy nhiên, trầm cảm là một nguyên nhân ít phổ biến hơn của rối loạn sử dụng rượu và các rối loạn sử dụng chất gây nghiện manh, ngoại trừ việc người trầm có xu hướng hút thuốc nhiều và bỏ bê sức khỏe, tăng nguy cơ phát triển hoặc gây sự tiến triển của các rối loạn hoặc bệnh tật khác (như các bệnh về phổi, dạ dầy, gan, thận ...)
Trầm cảm có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể, làm tăng nguy cơ rối loạn tim mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ
Những người bị rối loạn trầm cảm thường có ý nghĩ và có thể tìm cách tự sát.
Ghi chú:
Tỷ lệ tự sát đối với những người có rối loạn trầm cảm là 2%-15%, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của rối loạn.
Nguy cơ tăng nhiều trong các trường hợp sau:
Khi bắt đầu trị liệu
Khi hoạt động tâm thần vận động trở lại bình thường nhưng tâm trạng vẫn còn u ám
Trong trạng thái lưỡng cực hỗn hợp
Vào các ngày kỷ niệm đáng nhớ cá nhân
Do lo âu nghiêm trọng, hoặc kích động tâm thần
Khi có sử dụng rượu, chất kích thích, chất gây nghiện ....
Trong vài tuần đến vài tháng sau một vụ tự sát, của mình, hoặc của người khác, đặc biệt là nếu người đó sử dụng một phương pháp bạo lực
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CỦA TRẦM CẢM
Nguyên nhân chính xác gây các rối loạn trầm cảm không rõ ràng, nhưng có sự đóng góp bởi yếu tố di truyền và môi trường và các sự kiện bất lợi.
Các yếu tố tâm lý xã hội là một nguyên nhân tiềm ẩn, như các căng thẳng lớn trong cuộc sống, sự chia tay, các mất mát lớn...; tuy nhiên, các sự kiện như vậy thường không gây trầm cảm kéo dài, trầm trọng ở người bình thường.
Những người mắc các rối loạn tâm thần, rối loạn khí sắc khác, những người có khuynh hướng lo âu, những người có khả năng hồi phục yếu, những người chưa phát triển các kỹ năng xã hội thích nghi với áp lực cuộc sống, phụ nữ... sẽ có nguy cơ mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng nhiều hơn.
Một số lý thuyết khác tập trung vào sự thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm sự điều hòa bất thường về dẫn truyền thần kinh hệ cholinergic, catecholaminergic (noradrenergic hoặc dopaminergic), và serotonergic (5-hydroxytryptamine. Rối loạn điều hòa nội tiết thần kinh có thể là một yếu tố, đặc biệt chú trọng đến 3 trục: vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận, vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến giáp, và hormone tăng trưởng vùng dưới đồi-tuyến yên.
Các triệu chứng trầm cảm cũng có thể phát triển theo mùa, điển hình là vào mùa thu hoặc mùa đông, hoặc nơi có thời tiết khắc nghiệt.
Triệu chứng hoặc rối loạn trầm cảm có thể đi kèm với các rối loạn cơ thể khác, bao gồm rối loạn về tuyến giáp, rối loạn về tuyến thượng thận, u não lành tính hay ác tính, đột quỵ, AIDS, bệnh Parkinson, và xơ cứng rải rác....
Đôi khi các triệu chứng trầm cảm cũng gây ra do các rối loạn về thể chất (rối loạn tuyến giáp hoặc tuyến thượng thận, u não lành tính hoặc ác tính, đột quỵ, AIDS, bệnh Parkinson, xơ cứng rải rác). Hoặc do tác dụng phụ một số loại thuốc (corticosteroid, một số thuốc chẹn beta, interferon, một số loại chất giải trí hoặc gây nghiện...), do lạm dụng một số loại chất kích thích (rượu, amphetamin ... )
Hiệu ứng phụ của việc cai nghiện cũng có thể gây ra các triệu chứng trầm cảm tạm thời.
PHỤ NỮ CÓ NGUY CƠ NHIỀU HƠN
Chưa rõ nguyên nhân vì sao phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm cao hơn nam giới. Có thể do:
Phụ nữ tiếp xúc nhiều hơn, và buộc phải đáp ứng mạnh với các căng thẳng hàng ngày
Nồng độ monoamine oxidase cao hơn (enzym có vai trò làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh được coi là quan trọng đối với khí sắc)
Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp của phụ nữ cao hơn
Chịu sự thay đổi nội tiết khi có kỳ kinh nguyệt, thời kỳ mang thai, sinh nở, sau sinh, tiền và mãn kinh
Trong trầm cảm khởi phát thời kì sinh nở, các triệu chứng phát triển trong lúc mang thai hoặc trong vòng 4 tuần sau khi sinh (trầm cảm sau sinh);
những thay đổi nội tiết đã được chỉ ra là có liên quan, nhưng nguyên nhân cụ thể con chưa rõ.
CHUẨN ĐOÁN
Chuẩn đoán bằng bảng câu hỏi điều tra đặc biệt theo tiêu chuẩn DSM-5
Đây là một công cụ chẩn đoán trầm cảm điển hình, giúp phân biệt rối loạn trầm cảm với những biến đổi về khí sắc bình thường.
Các triệu chứng đặc hiệu của trầm cảm cần phải kèm theo sự đau khổ tột cùng, sự suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động quan trọng khác, cũng như các suy nghĩ và kế hoạch nào với mục đích gây tổn hại cho bản thân hoặc người khác, các kế hoạch tự sát, các các đặc điểm u sầu, yếu tố nguy cơ bệnh tật khác như chứng loạn thần, các vấn đề thể chất, rối loạn sử dụng chất gây nghiện, rối loạn lo âu ...
Mức độ của trầm cảm được xác định bởi mức độ đau khổ và tàn tật (thể chất, xã hội, nghề nghiệp) và theo thời gian kéo dài của các triệu chứng.
Không có phát hiện trong phòng thí nghiệm là đặc trưng bệnh của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, xét nghiệm kiểm tra là cần thiết để loại trừ các tình trạng thể chất có thể gây ra trầm cảm.
Các xét nghiệm bao gồm công thức máu toàn phần, nồng độ hóc môn kích thích tuyến giáp, và chất điện giải thường quy, vitamin B12 và nồng độ folat ở người cao tuổi testosterone mức độ.
Đôi khi việc kiểm tra việc sử dụng ma túy là cần thiết.
NÊN LÀM GÌ KHI RƠI VÀO TRẦM CẢM
XÁC ĐỊNH CÁC ƯU TIÊN
Để giúp bản thân thoát khỏi tình huống không an toàn và tiết kiệm năng lượng, nên xác định lại các ưu tiên thời gian của bạn. Tránh tham gia vào quá nhiều hoạt động, đề ra quá nhiều mục tiêu. Nên tập trung vào những điều cơ bản, thiết yếu, quan trọng nhất trong hiện tại và tương lai gần của bạn.
QUAN TÂM HƠN TỚI BẢN THÂN
Trong lúc này, nên tránh hà khắc và cay nghiệt với bản thân. Thay vì cố ép bản thân phải sớm vượt qua, hãy nhẹ nhàng tự ủng hộ và động viên bản thân bằng những bước tiến nho nhỏ. Hãy chấp nhận cho bản thân thời gian để vượt qua, phục hồi.
Thay vì phán xét bản thân, hãy nhắc nhở rằng mình vẫn đang cố gắng để cải thiện tình trạng. Và nếu có lỡ nhận ra mình đang lên án chính mình, thì hãy để những ý nghĩ ấy trôi qua, tức là cố gắng dừng phán xét chính những phán xét của mình.
Nên tìm đến các liệu pháp giảm bớt căng thẳng như hít thở sâu, vận động thể chất nhẹ nhàng và đều đặn.
Hãy chú trọng tới thực phẩm lành mạnh, và nhịp sống điều độ, đặc biệt là cho phép bản thân ngủ đủ giấc mỗi đêm.
Nên nhớ, trạng thái mà bạn đang gặp phải chỉ có tính thời điểm, sẽ sớm có sự thay đổi.
MỞ LÒNG TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP
Thay vì khép kín, hãy tìm tới sự trợ giúp của gia đình, bạn bè, người thân, các nhóm hội, các nguồn lực cộng đồng... để chia sẻ kinh nghiệm, suy nghĩ, giảm gánh nặng.
Bạn cũng nên cân nhắc việc tìm tới các hỗ trợ, đồng hành của các chuyên gia, giúp bạn vượt qua cơn tram cảm và phục hồi trạng thái tinh thần lành mạnh hơn.
GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC ĐỐI MẶT VỚI TRẦM CẢM
Đón nhận họ bằng cách lắng nghe không phán xét những suy nghĩ, cảm giác, cảm xúc... mà họ chia sẻ, một cách chân thành, cởi mở.
Tập trung vào sự đồng cảm bằng cách xác định lại ngắn gọn những gì bạn nghe từ họ, không diễn giải theo ý của riêng bạn.
Thay vì đưa ra các phân tích, giải pháp, lời khuyên, hãy tập trung vào hỗ trợ họ bằng cách xác nhận, khuyến khích những nỗ lực của họ.
Một người đang rơi vào trầm cảm có thể gặp rối loạn nhịp điệu sống, và rất cần bạn trợ giúp các công việc hàng ngày, như dọn dẹp, chợ búa, nấu nướng ... để giảm gánh nặng cho họ, và giúp họ tập trung vào đương đầu và vượt qua cơn trầm cảm.
Khuyến khích, ủng hộ họ liên hệ với các chuyên gia sức khỏe tâm thần để được hỗ trợ và giúp đỡ đúng cách, có chuyên môn. Bạn có thể giúp họ tìm kiếm, chọn lựa các địa chỉ uy tín, đặt hẹn, cùng họ viết sơ lược một số câu hỏi muốn được tư vấn, và cùng họ tới buổi hẹn đầu tiên.
ĐIỀU GIẢM TRẦM CẢM
Các loại hỗ trợ
Trị liệu theo các liệu pháp tâm lý
Thuốc
Trầm cảm nhẹ có thể được điều trị bằng sự hỗ trợ chung và liệu pháp tâm lý.
Trầm cảm vừa đến nặng được điều trị bằng thuốc, liệu pháp tâm lý, hoặc cả hai và đôi khi trị liệu bằng liệu pháp chữa trầm cảm sốc điện.
Một số người mắc rối loạn cần điều trị kết hợp của thuốc, sự cải thiện có thể không rõ ràng cho đến sau 1 đến 4 tuần điều trị bằng thuốc.
Ở những bệnh nhân đã có trên 1 giai đoạn, trầm cảm có khả năng tái diễn; do đó, các trường hợp nặng thường đòi hỏi liệu pháp trị liệu duy trì lâu dài.
Hầu hết những người bị trầm cảm được điều trị ngoại trú.
Những người có ý tưởng tự tử đáng kể, cũng như những người có các triệu chứng tâm thần hoặc khiếm khuyết thể chất, đặc biệt là khi thiếu hỗ trợ gia đình, rất cần nên phải nhập viện.
Những người có rối loạn sử dụng chất gây nghiện, các triệu chứng trầm cảm thường có thể thuyên giảm trong vòng vài tháng ngừng sử dụng chất gây nghiện. Điều trị chống trầm cảm ít có hiệu quả hơn trong khi sử dụng chất gây nghiện vẫn tiếp tục.
Nếu một rối loạn cơ thể hoặc thuốc có độc tính là nguyên nhân của trầm cảm, trước tiên cần phải điều trị trực tiếp các rối loạn đó. Tuy nhiên, nếu triệu chứng không rõ ràng, hoặc bao gồm ý tưởng tự sát, hoặc kèm theo cảm giác vô vọng, một thử nghiệm điều trị với một thuốc chống trầm cảm hoặc một thuốc chỉnh khí sắc có thể được chỉ định.
Rối loạn đau buồn kéo dài cần được trị liệu theo các liệu pháp tâm lý dành riêng cho chứng rối loạn này.
Cho đến khi bắt đầu có các biểu hiện cải thiện rõ ràng, thân chủ có thể phải gặp nhà trị liệu hàng tuần, hoặc hai tuần một lần để theo dõi sự tiến triển. Việc liên lạc bằng cách gọi điện cũng có thể hữu ích giũa các phiên tái hẹn.
Với những người có các lo lắng hoặc ngại ngần về việc có rối loạn tâm thần, nhà tham vấn có thể giúp bằng cách giải thích về trầm cảm, vốn là một rối loạn y học nghiêm trọng gây ra bởi rối loạn sinh học, và cần điều trị đặc hiệu. Thân chủ và người thân cần được trấn an rằng trầm cảm không phán ánh một nhân cách xấu xa (như lười biếng, yếu đuối, nhu nhược... ), và con đường phục hồi thường dao động lên xuống và lâu dài. Điều này giúp họ nhận ra vô vọng chỉ là quan điểm cá nhân và có thể giúp họ cải thiện khả năng tuân thủ liệu trình.
Khuyến khích thân chủ tăng dần các hoạt động đơn giản (như đi bộ, tập thể dục, vận động thể chất thường xuyên), cải thiện các tương tác xã hội phải được cân bằng với sự thừa nhận mong muốn lảng tránh các hoạt động. Thân chủ cần được trợ giúp để tránh tự đổ lỗi, cần hiểu rằng các tư tưởng đen tối là một phần của rối loạn, và khi tuân thủ một số biện pháp chúng sẽ dần dần biến mất.
Nhiều thử nghiệm đối chứng cho thấy rằng các liệu pháp tâm lý, như liệu pháp hành vi nhận thức, liệu pháp tương tác cá nhân, liệu pháp phân tâm, liệu pháp thư giãn sophrology hoặc thôi miên trị liệu... có hiệu quả ở những bệnh nhân rối loạn trầm cảm điển hình nhẹ, cũng như giảm các triệu chứng cấp tính, hoặc để giảm khả năng tái phát.
Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm chỉ được kê bởi ác bác sĩ tâm thần.
Việc lựa chọn thuốc có thể tham khảo theo đáp ứng trước đây với một loại thuốc chống trầm cảm cụ thể.
ECT liên quan đến gây cơn co giật bằng điện trong điều kiện được kiểm soát.
Cơ chế hoạt động của liệ pháp này không chắc chắn, nhưng việc tạo ra hoạt động co giật dường như không thể thiếu với tác dụng chống trầm cảm.
ECT hiện đại, được cung cấp khi có thuốc an thần nặng/gây mê toàn thân, thường được dung nạp tốt nhưng tình trạng lú lẫn và suy giảm trí nhớ có thể xảy ra trầm trọng. Phần lớn các triệu chứng này được cải thiện và khỏi sau 6 tháng sau một đợt điều trị ECT, nhưng tình trạng quên ngược chiều có thể tồn tại trong thời gian dài.
Những trường hợp sau đây thường được điều trị bằng ECT nếu thuốc không có hiệu quả:
Trầm cảm nặng có tự sát
Trầm cảm với sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần
Trầm cảm có hoang tưởng
Trầm cảm trong thai kỳ
Bệnh nhân chống đối ăn có thể cần ECT để ngăn ngừa tử vong.
ECT đặc biệt có hiệu quả đối với trầm cảm loạn thần.
Đáp ứng từ 6 đến 10 lần điều trị ECT thường cho hiệu quả cải thiện khả quan ở bệnh nhân. Tái phát sau khi ECT là phổ biến, và liệu pháp dùng thuốc thường được duy trì sau khi ngừng ECT.
Liệu pháp ánh sáng được biết đến nhiều nhất cho trầm cảm theo mùa nhưng dường như có hiệu quả tương đương với chứng trầm cảm không theo mùa.
Có thể cung cấp dịch vụ điều trị tại nhà với một thiết bị ánh sáng đặc biệt cung cấp 2500 đến 10.000 lux ở khoảng cách 30 đến 60 cm mà thân chủ có thể nhìn trong 30 đến 60 phút/ngày (lâu hơn với nguồn ánh sáng ít cường độ hơn).
Ở những người ngủ muộn vào ban đêm và dậy muộn vào buổi sáng, liệu pháp ánh sáng có hiệu quả nhất vào buổi sáng, đôi khi được bổ sung với 5 đến 10 phút phơi sáng trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối.
Đối với người ngủ và dậy sớm, trị liệu ánh sáng có hiệu quả nhất trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối.
Thuốc kích tâm thần (ví dụ, dextroamphetamine, methylphenidate) đôi khi được sử dụng, thường là với thuốc chống trầm cảm. Một số thử nghiệm đối chứng hỗ trợ việc sử dụng chúng trong các rối loạn trầm cảm .
Thảo dược được sử dụng cho một số bệnh nhân. Cỏ St.John's có thể có hiệu quả đối với trầm cảm nhẹ, mặc dù không chắc chắn vì có thể tương tác với các thuốc chống trầm cảm và các thuốc khác. Một số nghiên cứu đối chứng về sử dụng bổ sung omega-3, được sử dụng làm tăng hiệu quả của thuốc chính hoặc đơn trị, cho thấy rằng axit eicosapentaenoic 1 đến 2 g một lần/ngày có tác dụng hữu ích chống trầm cảm.
Kích thích thần kinh phế vị liên quan đến việc kích thích dây thần kinh phế vị từng nhịp thông qua một máy phát xung được cấy ghép. Liệu pháp này có thể hữu ích cho trầm cảm kháng trị so với các phương pháp điều trị khác nhưng thường mất từ 3 đến 6 tháng để có hiệu quả.
Việc sử dụng kích thích từ xuyên sọ lặp đi lặp lại (rTMS) để điều trị cấp tính chứng rối loạn trầm cảm nặng đã có sự hỗ trợ đáng kể từ các thử nghiệm có đối chứng. rTMS tần số thấp có thể được áp dụng cho vỏ não trước trán bên phải (DLPC) và rTMS tần số cao có thể được áp dụng cho DLPC bên trái. Tác dụng phụ thường gặp nhất là nhức đầu và khó chịu ở da đầu; cả hai xảy ra thường xuyên hơn khi sử dụng tần số cao hơn tần số rTMS tần số thấp.
Kích thích não sâu sử dụng điện cực cấy ghép hướng đến mục tiêu các hồi đai gối dưới hoặc bao trong bụng trước/bụng thể vân đã có kết quả khả quan trong chuỗi ca lâm sàng không đối chứng. Các thử nghiệm có đối chứng đang được thực hiện.
Các nhóm hỗ trợ, diễn đàn ... có thể giúp người rối loạn chia sẻ những kinh nghiệm và cảm xúc chung của họ.
1. McIntyre RS, Lee y, Zhou AJ, et al: The efficacy of psychostimulants in major depressive episodes: A systematic review and meta-analysis. J Clin Pscyhopharmacol 37 (4):412-418, 2017. doi: 10.1097/JCP.0000000000000723
2. Bergfeld IO, Mantione M, Hoogendoorn MLC, et al: Deep brain stimulation of the ventral anterior limb of the internal capsule for treatment-resistant depression: A randomized clinical trial. JAMA Psychiatry 73 (5):456-64, 2016. doi: 10.1001/jamapsychiatry.2016.0152
Thuật ngữ trầm cảm thường được dùng để chỉ bất kỳ rối loạn trầm cảm nào, một số được phân loại trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần(DSM-5)
theo các triệu chứng cụ thể:
Rối loạn trầm cảm chủ yếu
Rối loạn trầm cảm dai dẳng (loạn khí sắc)
Rối loạn trầm cảm biệt định và không biệt định
theo bệnh nguyên:
do tiền kinh nguyệt
do một tình trạng bệnh lý khác
do chất gây nghiện/thuốc
Các rối loạn trầm cảm xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường xảy ra ở giữa tuổi vị thành niên, 20 tuổi, hoặc 30 tuổi.
TRẦM CẢM ĐIỂN HÌNH (RỐI LOẠN ĐƠN CỰC)
Biểu hiện
Vẻ mặt đau khổ, lông mày lằn rãnh, góc dưới của miệng hạ xuống, thiếu biểu hiện trên khuôn mặt...
Tư thế sụp, giao tiếp bằng mắt kém, cử động cơ thể ít, vẻ ngoài run rẩy, có thể bị nhầm lẫn với bệnh Parkinson.
Thay đổi giọng nói (giọng mềm, thiếu thân tình, sử dụng của từ đơn âm...)
Khí sắc trầm đến mức nước mắt khô
Không thể trải nghiệm cảm xúc thông thường
Cảm thấy rằng thế giới đã trở nên đen tối, không còn màu sắc, không còn sự sống
Không chú ý đến vệ sinh cá nhân...
Giảm khả năng chăm sóc người, vật nuôi khác...
Nếu sinh dưỡng bị suy giảm nghiêm trọng thi cần có can thiệp ngay lập tức
Rối loạn trầm cảm đơn sắc cần có ≥ 5 triệu chứng xuất hiện gần như mỗi ngày trong cùng thời kỳ 2 tuần, và một trong số đó phải là khí sắc trầm hoặc mất các quan tâm thích thú:
Khí sắc trầm hầu hết trong ngày
Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày
Tăng hoặc giảm cân đáng kể (> 5%), do tăng hoặc giảm khẩu vị một cách cực đoan
Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ quá nhiều
Kích động hoặc chậm chạp (tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác)
Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức, không thích hợp
Suy giảm khả năng suy nghĩ, tập trung, do dự, mất khả năng quyết định
Những suy nghĩ lặp lại về cái chết hoặc tự sát, một kế hoạch cụ thể để tự sát, hành vi toan tự sát...
TRẦM CẢM DAI DẲNG (PDD)
Triệu chứng trầm cảm kéo dài ≥ 2 năm, không thuyên giảm (PDD), két hợp giữa rối loạn trầm cảm điển hình mạn tính và loạn khí sắc.
Triệu chứng thường bắt đầu một cách âm thần trong thời thanh niên, có thể tồn tại trong nhiều năm hoặc nhiều thập niên. Số lượng các triệu chứng thường dao động ở trên và dưới ngưỡng trầm cảm điển hình.
Người mắc rối loạn bị ảnh hưởng, thường ảm đạm, bi quan, mất hài hước, thụ động, thờ ơ, sống nội tâm, tự phán xét bản thân hoặc người khác quá mức, phàn nàn, kêu ca nhiều ....
Có nhiều khả năng bị rối loạn lo âu, lạm dụng các chất gây nghiện hoặc rối loạn nhân cách (như rối loạn nhân cách ranh giới).
Rối loạn trầm cảm dai dẳng cần có khí sắc trầm sụt trong hầu hết các ngày, thời gian ≥ 2 năm, cộng với ≥ 2 trong số những triệu chứng sau:
Chán ăn hoặc ăn quá nhiều
Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều
Giảm năng lượng, mệt mỏi, kiệt quệ, suy sụp
Lòng tự trọng thấp
Kém tập trung hoặc khó khăn trong việc đưa ra các quyết định
Cảm giác tuyệt vọng
HOẢNG LOẠN TIỀN KINH NGUYỆT PMDD
Hay còn gọi là rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt là các triệu chứng khí sắc và lo âu có liên quan rõ ràng đến chu kỳ kinh nguyệt, khởi phát trong giai đoạn tiền kinh nguyệt và khoảng thời gian không triệu chứng sau khi có kinh nguyệt.
Triệu chứng cần phải xuất hiện trong hầu hết các chu kỳ kinh nguyệt trong 1 năm gần đây nhất.
Các biểu hiện tương tự như các biểu hiện của hội chứng tiền kinh nguyệt, nhưng nghiêm trọng hơn, gây ra tình trạng đau nghiêm trọng, sự suy giảm đáng kể về chức năng xã hội, nghề nghiệp...
Các rối loạn có thể bắt đầu bất cứ lúc nào sau khi bắt đầu lần đầu có kinh nguyệt; có thể trỏ nên tồi tệ hơn như khi mãn kinh, và sẽ chấm dứt sau khi mãn kinh.
Hoảng loạn tiền kinh nguyệt, cần có ≥ 5 triệu chứng trong tuần trước khi có kinh nguyệt. Triệu chứng phải bắt đầu thuyên giảm trong vòng vài ngày sau khi bắt đầu kinh nguyệt và đến mức tối thiểu hoặc biến mất hoàn toàn trong tuần ngay sau khi có kinh nguyệt.
Thay đổi khí sắc đáng kể (đột nhiên cảm thấy buồn khổ, suy sụp, khóc lóc...)
Cáu kỉnh hoặc tức giận rõ rệt, gia tăng mâu thuẫn với người xung quanh
Khí sắc giảm đáng kể, cảm giác tuyệt vọng, có những suy nghĩ tự hối lỗi, xấu hổ, tự trách...
Lo lắng, căng thẳng, cảm giác chơi vơi, chống chếnh, cô độc ...
Ngoài ra, phải có ≥ 1 điểm sau:
Giảm sự quan tâm trong các hoạt động thông thường
Khó tập trung
Giảm năng lượng, mệt mỏi, kiệt quệ...
Sự thay đổi đáng kể trong cảm giác ngon miệng, ăn quá nhiều hoặc thèm muốn các loại thức ăn cụ thể
Ngủ nhiều hoặc mất ngủ
Cảm thấy quá tải, mất kiểm soát
Các triệu chứng cơ thể như tức ngực hoặc sưng, đau khớp hoặc cơ, cảm giác phù phì, tăng cân ...
RỐI LOẠN ĐAU BUỒN DAI DẲNG
Còn gọi là Rối loạn đau buồn kéo dài, là trạng thái buồn sầu dai dẳng sau một mất mát được đánh giá là lớn lao, không thể bù đắp được.
Khác với trầm cảm đơn cực, rối loạn đau buồn kéo dài có một nỗi buồn miên trường, liên quan đến mất mát cụ thể, hơn là cảm giác thất bại chung chung liên quan đến trầm cảm.
Trái ngược với đau buồn thông thường, tình trạng này có thể gây suy sụp và tàn tật rất cao, và cần có liệu pháp đặc biệt cho chứng rối loạn đau buồn kéo dài.
Đau buồn kéo dài được coi là xuất hiện khi phản ứng đau buồn (điển hình là sự khao khát hoặc khao khát dai dẳng và/hoặc mối bận tâm về người đã mất) kéo dài một năm hoặc lâu hơn, dai dẳng, lan tỏa và vượt quá các chuẩn mực văn hóa. Cũng phải đi kèm với ≥ 3 điều sau đây trong tháng gần đây nhất, ở mức độ gây ra tình trạng đau khổ nghiêm trọng:
Mất niềm tin
Cảm xúc đau đớn
Nhầm lẫn danh tính
Lảng tránh nhắc nhở về sự mất mát
Cảm giác tê tái
Cô đơn dữ dội
Cảm giác vô nghĩa
Khó tham gia, hòa nhập vào cuộc sống đang diễn ra
CÁC RỐI LOẠN TRẦM CẢM KHÁC
Dưới đây là một số nhóm triệu chứng có đặc điểm của một rối loạn trầm cảm, gây ra tình trạng khó chịu và suy giảm chức năng đáng kể trên lâm sàng, nhưng không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cho các rối loạn trầm cảm cụ thể khác.
Chúng bao gồm những giai đoạn tái diễn với ≥ 4 triệu chứng trầm cảm kéo dài, kéo dài < 2 tuần, ở những người chưa bao giờ đạt được tiêu chuẩn cho rối loạn khí sắc khác (như trầm cảm ngắn tái diễn), hoặc có giai đoạn trầm cảm kéo dài nhưng bao gồm các triệu chứng không đủ để chẩn đoán một rối loạn trầm cảm khác.
Trầm cảm chủ yếu và rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể bao gồm một hoặc nhiều biệt định mô tả các biểu hiện bổ sung trong giai đoạn trầm cảm:
Đau khổ lo âu: cảm thấy căng thẳng một cách bất thường, không thể nghỉ ngơi; khó tập trung bởi do lo sợ rằng điều khủng khiếp có thể xảy ra, cảm thấy có nguy cơ mất quyền kiểm soát bản thân.
Các đặc tính hỗn hợp: có ≥ 3 triệu chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ (như tăng khí sắc, phóng đại, nói nhiều hơn bình thường, nhiều ý tưởng, ngủ ít...), có nhiều nguy cơ tiến triển rối loạn lưỡng cực.
U sầu: mất vui thú trong hầu hết các hoạt động, không đáp ứng với kích thích thường cảm thấy. Có thể chán nản và tuyệt vọng, cảm thấy tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp, thức dậy sớm hoặc ngủ quá muộn, chậm chạp tâm thần vận động đáng kể hoặc kích động tâm thần vận động, chán ăn đáng kể hoặc giảm sụt cân nghiêm trọng.
Không điển hình: Tâm trạng tạm thời sáng sủa lên khi phản ứng với các sự kiện tích cực (như thăm chơi với trẻ em, thú vật...). Có ≥ 2 trong số những triệu chứng sau đây: phản ứng thái quá đối với những lời phê bình hoặc từ chối, cảm giác nặng như chì (cảm giác nặng nề chủ yếu ở các chi), tăng cân hoặc tăng sự thèm ăn, ngủ nhiều.
Loạn thần: Có những hoang tưởng và/hoặc ảo giác. Những hoang tưởng thường liên quan đến tội ác hoặc phạm tội không thể tha thứ, những rối loạn không thể chữa được hoặc đáng xấu hổ, có hoang tưởng đang bị bức hại. Có thể có ảo thính (nghe những lời buộc tội hoặc chỉ trích) hoặc ảo thị. Cần cân nhắc cẩn thận xem liệu tiếng nói có phải là ảo giác thực sự hay không.
Căng trương lực: chậm chạp tâm thần vận động mức độ nặng, tham gia vào các hoạt động không chủ đích và/hoặc cách biệt; nhăn nhó, nhại lời (echolalia) hoặc nhại động tác (echopraxia).
Khởi phát quanh thời kì sinh nở: Khởi phát trong thời kỳ mang thai hoặc trong 4 tuần sau khi sinh. Các đặc điểm loạn thần có thể hiện diện, giết trẻ sơ sinh thường có liên quan đến các giai đoạn loạn thần liên quan đến ảo giác ra lệnh hoặc hoang tưởng rằng trẻ sơ sinh bị xâm nhập.
Hình thái trầm cảm theo mùa: Các giai đoạn này xảy ra ở một thời điểm cụ thể trong năm, phần lớn thường là mùa thu hoặc mùa đông.
Nguồn tham khảo: msdmanuals
Bạn không biết:
Khi nào mình nên đến gặp một chuyên gia liệu pháp tâm lý ?
Sự khác biệt giữa một chuyên gia liệu pháp tâm lý và bác sĩ tâm lý...?
Làm thế nào để lựa chọn một chuyên gia liệu pháp tâm lý ?
Xung quanh việc trả phí một dịch vụ đồng hành tâm lý ?
___
Các thông tin trong chuyên mục này đều chỉ mang tính tham khảo
Bạn (còn) có tâm sự, thắc mắc ... muốn gửi cho Sophro Pháp Việt?
Đây là: NƠI BẠN VIẾ