MỞ
MỞ
Thấy giấc mộng hoa, xảo ảo ước
Bước lần giở lại, trang mộng phược
Tưởng bận xưa trước, tạo tác nay
Tay mơ mài mực, bút đọa đày
Phong tâm lèn chặt, ngôn muốn nín
Vết thương mới đỡ, da chưa kín
Đã lại phơi sương, nhịp đoạn mình
Quên thấu nguồn tình, duyên ái sinh
Đêm tương tác nghiệp, dệt cõi kinh
Miệng đóng rong rêu, vẫn hình linh
Chợt đào một đóa, sương mai sớm
Động gió vô thường, xuân mới đơm
Mộng hoa một giấc say bao kiếp
Thọ tưởng nhốt đặng cõi nhân tình
Định chẳng phải nơi tiêu thấu nghiệp
Tuệ quán thẳng đường thắng ba sinh.
Vĩnh biệt o3/o4/2o14
GIẤC MỘNG HOA
CC
KHÔNG
Bước vào phòng tôi. Ngồi xuống ghế tôi. Uống ly trà tôi.
Hết điểm trang. Chẳng ướp hương.
Tóc tự cắt. Lưng dựng thẳng.
Lặng im. Nhìn sâu. Rồi em nói.
Trầm Kha ạ, có một bài thơ, tương truyền do Đạo Hạnh thiền sư viết, nó thế này:
Tạc hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu, không như thuỷ nguyệt
Vật trước hữu không không. (*)
Đã mười năm, thủa ấy, mình cứ vùi đầu trong chăn, đóa hoa đêm nát bấy, bị vò nhàu bởi những giấc mơ phủ thẫm màu xanh núi đồi với đồng bằng.
Mình chợt thảng nhớ, là, mình đã cứ mải miết mơ, từ Tây sang Đông, từ mới tới cũ, từ người phụ nữ trẻ đến người phụ nữ già, từ người đàn ông hiện tại tới người đàn ông dĩ vãng. Những dấu tích lặng lẽ của các thế giới đã phai tàn, những thân phận không còn một mảy may sót lại, ngoại trừ những vết sẹo sạch sẽ, nhưng úa màu thời gian.
Tất cả đều lộn xộn, trong một cốt truyện tinh túy có nội dung, đã được viết từ rất xưa. Nhưng mà, Trầm Kha ạ, đã vẫn bặt tăm bóng dáng đóa sen trong những giấc mộng.
Có một lần, một sớm xuân, khi trả lại những đóa hoa nở bung nơi cửa nhà, mình chợt ngắm thấy chúng cười.
Những cánh hoa, Trầm Kha, màu trắng hồng, màu cam sáng, màu đỏ đun, màu vàng sẫm. Đó đây, lấm tấm hoa cỏ dại từ những hạt mầm hữu duyên màu mặt trời. Những nụ hoa chỉ nở vào mùa lạnh vẫn bắt đầu nhú mình. Tất cả đều rực rỡ một vẻ tinh nguyên trong sáng.
Vạt nắng bung ra, như pháo hoa rực rỡ chóng tàn, nơi cõi lòng mình tăm tối.
Trầm Kha, hoa nở chẳng nệ nhà nghèo giàu. Hoa tàn không phân người tốt xấu. Nhưng tại sao loài người đời chẳng thể vô tư hào hiệp tựa những đóa hoa?
Tất cả đều vô thường. Tất cả đều chưa từng trôi qua. Cái nắm bắt là cái chẳng có gì. Nhưng mình đã chưa thấu triệt được, chỗ nào mộng chỉ là mộng, còn chỗ nào thực tế như là huyễn.
Mình đã tưởng mình hiểu biết chút gì.
Nên mình cũng cười, nụ cười của những bông hoa, để thấy lòng thâm trầm nhưng thanh thản, như một buổi sáng xuân đã bớt lạnh, có mưa rơi tí tách, có một làn hương, có một ngọn nến, có một hình dung, có một niềm tin đã đang dựng xây cho vững chắc, có một ước nguyện đang điểm tô cho tha thiết, và có một con đường vạn dặm đã được bắt đầu bởi những chuỗi hạt son.
Và lại thế, tâm thể mình đã ngân nga những điệu chuông mõ vô thanh.
Nhưng... có những điều, Trầm Kha, mình, mình đã thật sự chưa biết hiểu.
Trầm Kha ạ,
Vàng, trắng, đỏ, hồng
Nắng mượt như nhung
Mộng say trong mộng
Chẳng phải hồng chung.
Chỉ là…
vậy thôi.
°°°
(*) Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ?
HT Thích Huyền Quang dịch.
---
CC
04/2014
1.
Phòng thoảng hương. Nắng thoảng nhẹ. Tím ấm đỏ.
Tóc gợn nâu. Mắt ngọc lá. Mênh mang quá.
Mười năm, thoảng qua, đời nhau.
Trầm Kha, cậu nghĩ sao, loài người, ở Trái Đất, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi phía bên kia không thể trông thấy của vầng nguyệt. Cho tới khi loài người đặt chân lên Mặt Trăng. Cho tới khi loài người biết vì cơ do gì mà nàng nguyệt luôn chỉ hướng một phía về Trái Đất. Cho tới khi tỏ rõ, thì ám ảnh hết, ảo tưởng tan.
Trầm Kha, nếu mình nhờ cậu việc này, cậu sẽ gật đầu, nhé. Cậu biết đấy, người ta không thể tự thôi miên mình được, còn cậu, cậu lại là một chuyên gia tâm lý.
Không, không hẳn chỉ để hiểu chính mình đâu! Có những loại hiểu thuộc về phần ý thức, cậu cũng biết, muốn hiểu - ấy là khi ý thức hướng về cái nó không ý thức được kìa.
Đúng vậy, Trầm Kha à, cái gì làm nên ảo tưởng, cái gì làm nên ám ảnh, cái gì thúc giục ý thức, cái gì nằm ngoài phạm vi của ý thức, ... đấy, chính là những cái đó.
Vậy thì, tại sao người ta không thể phân tâm người trong gia đình hay bạn bè? Trầm Kha, quý ông Sigmund ấy cũng phân tâm con gái mình cơ mà?
Rồi sao nữa à? Mình biết cậu muốn nói tới việc Anna chẳng bao giờ lập gia đình và không cũng bao giờ rời cha mình. Nhưng cậu có chắc là vì thế mà ông ta, Freud ấy, dành phần lớn đời mình diễn giải về những điều cấm kị, nhưng rồi chính ông ta đưa ra những điều cấm không?
Thế này, Trầm Kha ạ. Cậu có thể nói ra hàng trăm lí do, mình có thể (dường như là) lắng nghe lý lẽ của cậu. Nhưng đôi mắt cậu, đôi mắt mầu ngọc không biết nói dối đâu. Đôi mắt ấy bảo rằng, cậu muốn mình lui tới đây, trên cái sô pha này, đôi khi mình có thể nằm xuống và cậu ngồi đằng kia, phía sau mình, chỗ mà mình không thể thấy cậu, thể là, mình có thể nói ra bất cứ ý tưởng nào đi ngang qua, và cậu sẽ hỏi chỗ cần đặt câu hỏi, im lặng khi cần lắng nghe; đôi khi, cậu sẽ thôi miên mình, rồi mình sẽ kể cho cậu nghe về những giấc mơ, hoặc là những hồi ức ...
Hẳn nhiên, mình sẽ đợi cậu trả lời. Cậu lúc nào cũng cần thời gian để suy nghĩ. Còn mình lúc nào cũng chờ đợi. Dầu là thế, mình biết chắc là mình sẽ quay lại. Mình sẽ ngồi ở đây, cái ghế này, cậu sẽ trang hoàng nó, và nó sẽ trở thành cái 'sofa' của cậu.
Đôi mắt cậu bảo rằng, cậu lo sợ.
Nhưng còn có điều gì đó mạnh mẽ hơn.
Còn có điều gì đó mạnh mẽ hơn... Trầm Kha ạ.
---
CC
04/2014
2
Giá mà...
Giá mà tôi đừng gọi em.
Giá mà tôi đừng nói không muốn từ chối em.
Giá mà tôi đừng mở cánh cửa.
Giá mà tôi có thể tự thuyết phục mình rằng, người ta thường lo sợ cái mà họ chưa biết.
Những thước phim thì luôn chau chuốt tuyệt đẹp, còn phía hậu trường thì luôn tầm thường trần trụi. Nhưng nếu bước vào thế giới nội tâm em, tôi sẽ không biết đâu là hậu trường của những bộ phim - cõi tưởng, hay là những gì hiển hiện được gọi là cuộc sống thực? Tôi sẽ lẫn lộn hết mất, giữa lý trí và tình cảm, giữa hiện thực và ảo tưởng.
Và khi một nhà phân tâm đánh mất tỉnh táo lẫn khách quan, người ấy sẽ đánh mất cả hai: đối tượng và chính mình.
Giá mà, tôi ngừng phủ tấm vải đỏ tím lên chiếc sô pha.
Giá mà, tôi ngừng sắp đặt chỗ của mình khuất phía sau em.
Giá mà tôi đừng ngồi xuống.
Giá mà tôi không hỏi han.
Giá mà tôi không lắng nghe.
Giá mà tôi không nghe em nói...
Giá mà, tôi đừng biết rằng, tôi chưa từng nghĩ em là đối tượng, và tôi sẽ chẳng bao giờ ở vai trò nhà phân tâm.
Giá mà, bữa đó, trước em, tôi nhắm đôi mắt lại.
Giá mà...
Giá mà...
mắt em đừng tím như lòng hồ giữa đông.
---
CC,
04/2014
3.
Tiếng rất trầm. Chìm rất sâu. Xa.
Màu rất bạc. Vị rất nhạt. Lặng.
Sáu năm đã qua.
Trầm Kha, mình đã kể về vị tu sĩ của sáu năm trước ấy rồi chưa ư?
À... người đàn ông ấy... Mình sẽ nói gì, với cậu, bây giờ, khi mà đã sáu năm rồi, mà mình hầu như chẳng biết gì về người tu sĩ đó, ngay cả đến gương mặt. Mình, mình đã biết giọng nói. Khi người ấy gọi mình, rất ấm, rất trầm. Một chất giọng mà mình cũng đã quên, mất rồi.
Trầm Kha, mình nghĩ là, lúc ấy, mình đã phải lòng, một ảo tưởng.
Cậu nghĩ sao, người ta có thể quyến luyến một ảo giác không?
Có lẽ, chỉ vì người ấy đã xuất hiện cùng lúc với những giấc mộng.
Điệp, mộng rất điệp.
Có lẽ, mình đã lẫn lỗn cả.
Dù sao, mình cho là mình không động lòng với một người cụ thể nào. Chỉ là tâm, tâm đã quá đau đáu, bởi những ảo mộng, nên ý thức, ý thức đã gạt bỏ đi, ý thức không thể nhớ nổi nữa.
Nhưng cậu, chẳng vội vàng, cậu sẽ biết đúng lúc khi cậu thôi miên mình, và rồi cậu sẽ kể lại cho mình nghe, về những giấc mộng đã bị nhốt lại ấy, trong tiền ý thức, của mình, như vậy, phải không?
---
CC,
04/2014
4.
Em nói,
Cầu cao lắm, như cồng vỡ.
Nước sâu lắm, nhốt chặt trăng.
Lặp lại nhiều lắm, một giấc mộng.
Thi nhân cuồng khổ, đằm mình, vớt vòng trăng.
Chú tiểu nhỏ, gieo mình, cứu kẻ say.
Có khi, cả hai đuối.
Có khi người bỏ mạng là thi nhân.
Lần sau, chú tiểu chết.
Mà trời tím lịm cứ tảng im như tờ.
Còn mặt nguyệt vẫn vằng vặc tịnh thanh.
Những mảnh vụn vỡ, trong nước, cứ mải tìm nhau, kết thành mảng sáng méo mó lung linh, rúc rích cợt cười, tiếng của quá nhiều người.
Cứ vậy, cứ vậy mãi, cho tới một sớm mai, người đàn ông - vị tăng sĩ ấy, gọi em. Giọng Huế. Ngọt. Đầm. Chậm. Thoảng nhẹ nhàng run.
Mà làm cho dòng mộng ấy tiêu tan, lặn vào đêm tối.
---
CC,
04/2014
Thời coi xong màn kịch của cổ nhân
Phấn son ấy trang đậm nhạt vừa tầm
Đã e sợ nhìn thấu khúc nhạc tâm
Rồi giang hồ từ nay tử ly cách
Tạm biệt 25/ o8 / 2o18
CC
5.
Nhỏ xinh, mỏng mảnh, búp bê sứ Trung Hoa
đã từng cứa vào tâm,
chực nhận ra, gốm gạch rồi cũng có biết tị hiềm.
Trầm Kha, nhìn này, tóc cậu, khi ấy hãy còn thật dài.
Và này, ôi, cô gái ấy! Cậu chụp vụng về quá, run rẩy nên nhòe nhoẹt cả. Cô ấy, xinh, nhỏ, mỏng mảnh, tinh tế, như sứ...
Chẳng thô kệch, gốm gạch, như mình.
Ôi, Trầm Kha, mười năm, nhưng cậu không có lấy một tấm ảnh nào của mình ư!
Mà, cậu còn nhớ không, Trầm Kha, món quà cậu nhờ mình gửi cho cô ấy...
Đúng vậy, món quà! Sao cậu mỉm cười? Chẳng đáng gì để nhớ ư? Cậu biết không, Trầm Kha, mình đã nâng niu món quà của cậu như thể đó là quà của chính mình. Mình thì, mình nhớ mãi vẻ khép nép của người con gái đến từ một vùng quê nghèo, xoay vần món quà đầy tâm tình, được cậu gói gém cẩn trọng, giữa hai lòng bàn tay, cô ấy mỉm cười: Anh chàng này yêu em quá rồi ! Từ lúc ấy, mình biết là cô ấy sẽ ám ảnh cậu. Vì sao cậu biết không? Vì cô ấy không thật lòng yêu cậu.
Mình không thuộc về thế giới của cô ấy. Trầm Kha, cậu cũng không. Làm sao có thể hiểu được nhau? Thế mà cậu, vì tưởng gì, cứ ưu buồn man mác mãi.
Nhìn những bức ảnh này, cậu nâng niu quá, đặt thật thẳng thắn giữa những trang album. Những người con gái có vẻ mỏng manh mà lại nhiều bối rối, luôn cố tỏ vẻ mạnh mẽ như để tự bảo vệ mình, thì có vẻ thật dễ vỡ, phải không? Nàng càng không dứt khoát yêu cậu, cậu lại càng muốn bảo vệ nàng. Cô ấy cứ bối rối, quẩn quanh, hệt như cậu.
Vậy sao? Thế là, cô ấy gọi cậu: chàng ngây thơ của cô ấy? Ừ, Trầm Kha, cậu, khi ấy, bập bẹ vài câu tiếng Việt, chẳng biết cách tháo áo lót con gái, phát điên vì cô ấy cho cậu vuốt ve mà lại nhất định muốn giữ trinh, hai mươi sáu tuổi mà chỉ mới có một người bạn gái, lúc nào cũng ngơ ngác, thích được cưng chiều và trân trọng.
Ở đấy, đất nước mình, cậu thấy cậu được yêu, cậu thấy cậu đẹp trai. Khi về quê nhà của cô ấy, cậu được mời ngồi ăn nhậu với cánh đàn ông, cậu được bố cô ấy dè dặt canh chừng, cậu được cánh đàn bà khúc khích vây quanh.
Nhưng, cậu lại chẳng hiểu vì sao người ta không gả con gái cho cậu.
Cậu chẳng hiểu vì sao cô ấy không muốn rời gia đình theo cậu.
Cậu cũng chẳng biết, cậu vừa quay lưng, họ gọi cậu là thằng mũi lõ, khoai tây đeo ba lô, nghèo rớt.
Không, Trầm Kha, mình không phẫn nộ đâu.
Mình, mình chỉ cảm thấy hổ thẹn.
---
CC,
04/2024
6.
Vào ngày vị tu sĩ ấy gọi em, giấc mộng này tới.
Em nói, là chính ở đấy, là chính khi ấy, giữa thời kỳ rực rỡ của vàng bạc và lấp lánh của ngọc ngà, thời kỳ êm ái của lụa là và óng ánh của những mảnh voan dệt bằng sợi kim tuyến, thời kỳ huy hoàng của nghệ thuật, thẩm mỹ, màu sắc, mùi hương và những vẻ đẹp thư thái thanh tao, đã ra đời một người con gái.
Một cô gái sinh ra cùng sự nổi tiếng, mà mãi về sau này, em mới được hay là, danh tính và câu chuyện ấy còn được biết tới như thể một truyền thuyết. Nhưng lúc này, trong vọng sóng chiêm bao ồ ạt sống động của riêng mình, em chưa hay biết gì về tất cả những điều ấy. Em chỉ thấy, sự nổi tiếng bẩm sinh của một người con gái, ở tấm khăn voan được phủ lên mặt ngay từ lúc đứa bé sơ sinh còn đỏ hỏn, nhầy nhụa, gào khóc, quẫy đạp vì bị thúc bách bởi nỗi đau đớn đầu tiên, sự thổi bung hai thành phổi bởi luồng không khí giá lạnh.
Nếu không có tấm voan cách biệt gương mặt với thế gian, sẽ không một ai, kể cả người mẹ bứt ruột nứt ra đứa bé, muốn lại gần, chạm tới, hay ôm ấp nó, đứa trẻ tội nghiệp mà người ta tin rằng bị định mệnh trừng phạt bởi một lời nguyền.
Sự xấu xí thê thảm của gương mặt cô bé, em đã đắn đo biết bao, mà vẫn không biết phải nên diễn tả bằng cách nào.
Điều đáng buồn ấy, không phải ở làn da xanh xao nhợt nhạt nấp dưới mái tóc cứng như dây thép quấn vào nhau rối bời. Cũng không phải ở đôi mắt hơi cụp và húp. Không phải ở cái mũi có cánh khá lớn nhưng hai lỗ hơi nhỏ và sống mũi lun chun. Không phải ở cái miệng nửa rộng, nửa trề, nửa nhúc nhích run rẩy. Không phải ở gò má hơi nhô cao mà lại tham lam lấy mất phần thịt ở cằm, nơi giao nhau cuối cùng của gương mặt nhẽ ra nên tròn trịa. Cũng không phải ở vầng trán nửa hõm vào, nửa giô ra, vừa mới sinh đã vằn vẽ những đường hằn nhăn nheo của một bà lão quá lắm suy tư.
Không thể diễn tả thành hình hài được! Nếu tách riêng từng bộ phận thì chúng quả là không đẹp, nhưng chẳng gây sợ hãi và dễ làm nổi giận như khi chúng được kết hợp theo một cách kỳ cục với nhau, trên gương mặt con người, trong một tác phẩm thất bại của tạo hóa.
Một tác phẩm nhăn nhúm, bợt bạt, nhàu nhĩ, tựa hồ bức vẽ của đứa trẻ mới biết cầm bút lại cố tạo dựng khuôn mặt của một người bệnh đang chịu cơn đau đớn bất thường, hoặc kẻ khó ưa đang trong đỉnh cao của cơn phẫn nộ vô độ.
Một tác phẩm bị tàn hại gợi nhớ tới những nỗi đau mất mát và tái diễn mọi khiếm khuyết, khiến người phát hãi sợ, làm người muốn lánh xa, muốn hắt hủi, muốn ghét bỏ, muốn ruồng rũ.
Một tác phẩm thảm hại, tới nỗi, chính cô gái cũng không dám liếc nhìn bản thân thêm nữa trong đời, trừ lần duy nhất khiến nàng ngất lịm vào năm còn rất nhỏ. Mọi vật có khả năng phản chiếu đều trở thành mối hiểm họa chết chóc của nàng, những cái bẫy nguy hại giăng bủa vương vãi khắp nơi đợi người sa vào rồi chết nghẹt.
Trước sự xấu xí xa vời ấy, em, sùng sũng chiêm bao nên chưa từng phê phán mộng, cũng muốn phủ nhận rằng, khi đó, ở đó, bản thân, hay bất cứ ai khác, cũng đã từng mang một vài đường nét tố cáo hoàn cảnh bất thường nhường ấy.
Nhưng, dường như, chẳng có gì quá đà đáng chê trách hay ngợi khen thêm ở cô gái đáng thương này, thói trái khoáy bí ẩn của số phận. Nàng khéo léo và mộc mạc. Nàng dễ tính và dễ gần. Nàng chân thành và giản dị. Nàng tốt và nàng hiền. Nàng chưa từng biết thốt lên một lời cọc cằn hay thô lỗ.
Chỉ là có một cái gì đó, toát ra từ sau tấm voan óng ánh rực rỡ nhất trong những tấm voan nổi danh - tác phẩm của nàng, được phủ buộc cẩn trọng lên tác phẩm thất kinh của tạo hóa, làm cách biệt nàng với cả thế giới.
Mà cũng chính những ấm voan mảnh mai, dịu dàng, tơi như sương, nhẹ như gió, mê rũ người thấy sờ mà khắp thiên hạ chỉ mình nàng dệt nên, là đã hút cả khối thế nhân về bao bọc dưới nàng.
Người ta càng muốn lảng xa sự xấu xí chỉ được nghe ngóng của nàng, thì lại càng bị tài năng có thể xúc chạm nhìn rờ của nàng thu hút lại.
Nàng giống một độc đảo hoang sơ chưa được khám phá, hình như yên bình, nhưng lại khiến tâm thần người bất an, sợ sệt.
Tất cả chi tiết nhỏ nhiệm đó, nổi danh bị ruồng rẫy tự thủa ấu thơ, và tiền tài vọng ngưỡng do thiên tính thu hút lại, không chi vừa vặn đủ, để kéo nàng trở lại cõi cân bằng giữa đôi bờ sống chết. Ở những thời khắc xiêu vẹo cuối cùng của thời thiếu nữ, nàng đã không ngừng nghĩ tới việc tự kết thúc đời này. Trong nàng, thôi thúc những tiếng trống, mỗi lúc lại giục giã nàng về sự kết liễu.
Kết liễu sự chết dần. Lối chết mục ruỗng từ từ, bị bào mòn, bị gặm nhấm, bị rữa mủn, một cách chậm chạp, bởi cô độc.
Kết liễu cơn đói. Cái đói động chạm, đói ve vuốt, đói cảm thông, đói giao thoa, đói những niềm vui và những nỗi buồn dung dị giản đơn nhất... Cái đói tình cảm, đói tình yêu, đói mọi mối liên hệ tâm hồn và xác thịt bình thường - vẫn xảy ra mọi nơi, nhưng tuyệt nhiên không ở chỗ nàng. Đói nhàn nhạt hay nồng nàn - sự kết nối thông thường giữa bao con người vẫn lượn lờ xung quanh, nhưng không phải với nàng. Loại đói khát cùng quẫn vẫn luôn giày vò nàng, luấn quấn nàng, xiết chặt sự sống nàng, xô bẩy nàng lao dần về đồi chết.
Phận đời có những lúc trái khoáy, oái ăm, nghiệt ngã như một nhà văn độc địa căm ghét tất cả những nhân vật của mình, như thế!
Mặt khác, đầy mâu thuẫn, số phận cũng lại luôn yêu thương tạo tác của mình, tựa người mẹ khắc khổ tận tình yêu chiều những đứa con ruột thịt. Bởi vì, giữa mọi bất công khó lý giải mà định mệnh thích vẽ vời ra, luôn tàng ẩn một công bình lớn lao, cùng với những nhiệm màu nằm ngoài mọi tính toán và trên cả ước muốn.
Vào một buổi chiều tà nhập nhoạng tối, một toán khách buôn xa lạ đã tìm tới chỗ nàng. Nhằm giữa vụ mà mọi khách điếm như nấm mọc phún ra quanh nơi nàng sống đã kín ních chỗ nghỉ chân, cho dù những phiên chợ vẫn mở đóng đều đều và thương buôn vẫn đến dời như con cửi.
Trong lúc đoàn người mới xúng xính, chậm chạp luồn sâu vào làng, thì những thương buôn nhỏ lẻ bắt đầu chất lên lưng các con vật thồ nhiều súc vải voan nhái giả, mà hội phường dệt khảo theo các tuyệt tác của nàng thường làm, theo lề lối hết sức địa phương, để lòe bịp những khách hàng xa xứ. Nhưng gương mặt đăm chiêu, cái nghiêm nghị, lối ve vuốt tinh đời của những khách hàng mới này hiển bày rõ ràng điều họ đương kiếm tìm.
Dáng vẻ, bộ tịch, cử động thân thể, lời ăn tiếng nói, ngay cả cái khoát tay làm rơi ra những đồng tiền vàng và những chuỗi hạt ngọc của họ, cũng tỏa ra mùi vị hào hoa vương giả chẳng hề tầm thường. Những mẫu voan họ đặt mua vô cùng tinh tế và diễm kiều, loại nhất định dùng để phủ trên da thịt mượt mà của những nàng công chúa và ve vuốt thân thể ướp hương của các quý tộc vương tôn. Không sự giả mạo nào có thể đáp ứng được. Như bị soi chiếu bởi ánh sáng của một quyền lực phi hình, mọi mưu mô giả trá đều rúng sợ trước đoàn người lạ, người ta buộc phải dẫn họ tới nơi trú ngụ để nhờ lụy tới nàng.
Người con gái giấu mặt sống ẩn dật trên một cồn đảo giữa vùng hồ phẳng rộng luôn phủ đầy sương. Dưới một giàn cây hoa xinh đẹp đầy gai, lặng lẽ và cô độc, quay lưng với tất cả tiếng xì xào và lối nhìn xoi mói đầy nghi ngại của những người lạ lẫm từ phương xa, như thể mộng du, nàng, ủ rũ không thôi mơ màng dệt.
Lối mê mải của nàng quá gần với thói kiêu kì ngạo mạn, đến nỗi có nguy cơ trở thành một mồi lửa chỉ chực nhóm củi bất bình. Nhưng đám người tinh tường này biết rõ họ chẳng thể đòi hỏi gì hơn ở một nghệ nhân bất hạnh đang dìm mình trong thế giới khác, nơi mà quyền lực của họ không còn ảnh hưởng nhiều nhặn gì hơn tiếng đồng xu rơi đanh vọng khô khan. Khi đám người tò mò không còn chú ý tới cô gái nhỏ nhắn, ủ dột, buồn tẻ kia nữa, và bắt đầu khảo cứu, bàn tán, thương nghị về những tấm voan, thì một người đàn ông từ giữa họ âm thầm lách ra, nhẹ nhàng tiến lại gần khung cửi.
Một chàng trai thanh tú, tao nhã, mà những con mắt tầm thường dung tục của đám phàm nhân khó lòng nhận diện ra. Luôn được vây quanh giữa một nhóm đông các nhân vật nổi trội lạ lẫm khác thường, chàng, cuộn tròn đầy u hoài như một tâm ngài quý giá giản dị, được che bọc bởi những đường tơ viền óng rực rỡ, nhằm đánh lừa những lối thấy nông cạn. Sự mẫn tiệp của chàng ẩn tàng trong tất cả hào nhoáng khác, giống như bộ mặt thật lặng chìm sau lớp màu mè điểm trang. Nhưng dù có vậy, con người ấy toát lên vẻ sang trọng, tuyệt đẹp và uẩn sầu, ngay cả trong sự im lặng thu mình. Người mà trong một phút giây hi hữu bất thường, vượt khỏi mọi sự bảo vệ nghiêm cẩn nhất, đã vô tình nâng lên bàn tay nàng, khi con thoi nhỏ đâm sượt qua khiến một ngón tay thon dài tứa máu.
Người con gái không ngẩng lên, cũng chẳng rụt rè thu bàn tay lại. Nàng cứng đờ như hóa đá, trong lúc tâm thể chàng dính chặt vào tay nàng. Bởi vì, sự va chạm hi hữu như không thể xảy giữa họ đã đẩy vòng bánh xe vô hình nào đó bắt đầu quay, những xoáy tròn kẽo kẹt nặng nề xuyên qua nhiều kiếp phận. Hoặc ngược lại, rằng định nghiệp bắt đầu trổ chín vào chính thời điểm hội đủ nhân duyên, nên chỉ có một phép lạ, một điều diệu kỳ mới lý giải đuợc những chuyện đã xảy ra.
Người đàn ông tao mặc, thình lình, nơi khoảnh khắc va chạm ấy, chợt bị một niềm hạnh phúc hân hoan vô bến bờ ào ạt xâm chiếm lấy. Chàng thấy lại mình như đứa trẻ cô độc ngày nào, bơ vơ, co quắp quẫy giữa tột cùng tước quyền và phẩm giá.
Cậu bé, giấu ưu uất, đang quẩn quẫn bóp nghẹt những ao ước chưa từng thôi bị giam nhốt giữa khuôn phép hoàng gia.
Cậu bé, thậm chí không thể khóc thương hoặc đưa tang cho những mộng mơ mình, vì nước mắt của cậu quý hơn cả ngà ngọc, hễ chực rơi sẽ làm đổ máu đôi ba người.
Cậu bé, đã sống, không hề muốn lớn lên, vô vị, uể oải, cất giấu ước mơ khắc khoải giữa chốn trú ngụ đầy ắp những mối quan hệ sống chết, nghiêm trang, giả vờ, thâm độc, như thế, cho tới tận lúc này, khi một luồng ánh sáng rực rỡ chiếu xuyên qua tất cả mọi buộc ràng, huy hoàng như thể soi xuống từ thiên cung, mở lối cho cậu bé chạy ào ra.
Không quyền tước, không mũ khăn, không một mảnh vải nào quấy rầy thân, không tên, không họ, không trách nhiệm, không gia tài, không rào cản, trần truồng giữa thinh không, chân lấm bùn, lăn trong gió, mưa xối xả đâm xuyên qua làn da, tuyết rũ đầy đầu, sỏi đá dưới chân mềm chảy thành dòng, cậu bé điên cuồng tự do phi trên đồng cỏ. Là vậy, đôi bàn tay thiên thần nào đã nâng cậu bé bay bổng chạm tới được cả những ước mơ.
Chàng mở mắt bàng hoàng, thấy ra mình như một người đàn ông, đang choáng ngợp trong niềm hạnh phúc phún trào khi một ước ao cháy bỏng của trẻ thơ được an ủi, được phỉ nguyện. Chưa một dục lạc thể xác lẫn tinh thần nào từng làm chàng hân hoan nhiều đến thế. Một rung cảm ngọt ngào đáng mê say, như thể tâm hồn được đong đầy mật ngọt, và từng thớ thịt tứa ra những giọt hương hoa, nhấn chìm chàng.
Chàng lặn vào bên trong.
Thứ rung động không tiền bạc hay quyền tước nào mang lại được.
Thứ xúc cảm mê mụ của hoan lạc chỉ có thể được ban phát từ những cõi giới xa xăm.
Chàng nghĩ, nếu có chi khiến chàng rúng động xuyến xao đến tận nhường này, thì đó chỉ có thể là tình yêu. Phải rồi, tình yêu, điều duy nhất được truyền tụng khắp nơi mà chàng lại chưa từng nếm trải.
Nhưng em, em chưa bao giờ tin vào câu kết sau cùng của những câu chuyện cổ tích, rằng kể từ ấy đôi tình nhân rơi trúng cùng vào một mối lương duyên, sẽ hưởng trọn một đời êm đềm mãi mãi. Hẳn nhiên là nàng công chúa cóc và nhà vua đẹp trai có thể sống hạnh phúc, khi người ta mụ vì yêu thì dù có thế nào họ cũng vẫn sung sướng mà. Nhưng viễn cảnh ấy chẳng bao giờ đầy hoa êm, mượt mà như lụa như nhung kiểu trẻ con thường hay tưởng tượng. Tất cả người lớn đều an ủi trẻ con bằng những câu đánh lừa như vậy, và trẻ con sẽ phải lớn lên bởi những thất vọng đầu tiên.
Đó là vì, rồi thì em đã tỉnh dậy với một mối hoài nghi lớn lao, gần như kinh ngạc, khi chiêm bao mình bị đứt quãng, bị vô tư cắt ngang, ở nơi một đám cưới rình rang, lộng lẫy và huy hoàng, giữa cô gái vô cùng xấu xí và người đàn ông bí ẩn tuyệt đẹp.
---
CC,
04/2014
7.
Trà nóng, trong tay.
Nhẹ bước vào phòng, như bước vào dòng sống.
Trầm Kha, Trầm Kha, vâng, đó đúng là triết lý khó chấp nhận nhất, bởi vì nó giản dị mà mâu thuẫn quá đỗi.
Cái làm người ta trầm luân, Trầm Kha, vâng, chính là ái này. Điều này cứ được mặc định như thể một chân lý.
Thế nhưng, rồi, một hôm, có vẻ đột ngột, người ta sẽ chợt nhận ra, tất cả những lý thuyết tỏ tường kia đều trở nên mơ hồ hệt một tích cổ khiêm nhường.
Mấy ai ở đời có thể nhận chân được bộ mặt của luyến ái, khi mà nó tự nhiên quá, tinh vi quá. Ái dục tựa hồ có mặt ở mọi nơi. Ái dục tựa hồ là chất liệu dệt đan cuộc sống này. Ái dục tựa hồ là chất liệu cấu kết nên chính mình.
Nên ra, làm cách nào mà diệt tan ái dục?!
Không, Trầm Kha, không ai diệt tan ái dục, chỉ có nhân duyên...
---
CC,
04/2014
8.
Kể từ ấy.
Ban ngày, em nghe vị tăng kể, những câu chuyện Phật Pháp dông dài.
Ban đêm, một dòng suối mộng ẩn hiện sau dãy núi đồi thực tại, nhẹ nhàng chảy vào giấc ngủ em, ru em bằng câu chuyện cổ xưa, về người đàn bà mang tấm mạng hoa che giấu vẻ xấu xí thảm khốc với đôi bàn tay dệt nên vàng... Thoáng chốc, đầy sửng sốt, nàng trở thành hoàng hậu của một vương quốc hưng thịnh.
Thoạt tiên, một số triều thần nắm trong tay nhiều quyền lực, những kẻ chủ trương cải cách theo chế độ phụ mẫu tương song cổ xưa, được hẫu thuẫn bởi nhiều nhóm phi tần vương phi, đã quả quyết rằng: quyết định phong hậu vội vàng, không thương nghị với bất kể quan viên nào, được thực hiện ngay trên chuyến viễn du đầu tiên, của Thuận Vương, chính là phản ứng mang đầy hương vị ngông cuồng tuổi trẻ. Dù có vậy, để không làm căng thẳng tình hình và tránh các hành động phản kháng dữ dội của các phe nhóm đối kháng, ở nơi chốn sống còn thị phi này, vị hoàng đế trẻ đôi khi cần được tôn trọng trong việc thể hiện trí tuệ và sức quyết đoán bằng một vài quyết định quan trọng nho nhỏ.
Một số quan lại thủ cựu, những người bám rễ với nguyên tắc cấm ngặt phụ nữ tham gia việc triều chính, tỏ ra có thiện cảm với tính khiêm nhường, lặng lẽ của hoàng hậu đeo mạng.
Phần còn lại các văn võ bá quan và vương tôn quý tộc lặng lẽ chờ đợi, thăm dò tình hình trước khi quyết định cần ứng xử ra sao.
Rồi, người ta sớm nhận ra những điều khó hiểu, khi hoàng hậu không đích thân tổ chức yến tiệc, mà cũng không tham dự bất cứ cuộc vui nào. Nàng không kết thân với ai, mà cũng không ai tiếp cận được với nàng. Không một của cải nào vương lại nơi nàng, không một lời chúc tụng nào lọt vào tai nàng.
Thế là, người ta bắt thêu dệt về đức tính giản dị, thanh ẩn – vốn không có chỗ trong chốn vương triều, là một thế giới huyền hoặc khuất sau tấm màn dầy sương không gì xuyên qua được. Lối sống ẩn dật khuất mình này chẳng mấy chốc được gọi là thói kiêu ngạo tục tữu của phường phàm dân, một thái độ sỉ nhục những nguyên tắc vương giả.
Những lời đồn thổi nanh độc, lạ lùng, li kỳ về tân hậu, cùng những người ghen tị với vận may, hay của những kẻ căm ghét nàng, đều không thể khiến Thuận Vương hoang mang, dầu chút đỉnh. Với một tình yêu mãnh liệt tưởng như không gì lay chuyển được, chàng nguyện là người duy nhất che chở bảo vệ nàng. Nhưng, trong sự yêu thương tròn đầy này, vẫn hàm chứa một khe nứt nghi ngại, mà từ ấy, lòng tin và sức lực của quốc vương, từng chút một, cứ lặng lẽ hao hụt tuồn ra.
Chính điều đã kéo chàng lại, dính chặt chàng vào, khiến chàng không sao rời xa được, lại trở thành căn nguyên của nỗi nghi ngờ tai hại ấy. Chàng dằn vặt tự hỏi, về đôi bàn tay mà chàng thèm khát được sở hữu, đôi bàn tay dệt nên những tấm lụa tinh xảo tuyệt đẹp, mà chỉ cần chạm phải báu vật ấy thôi, là cả một dòng thác hạnh phúc lập tức đổ ngập xuống tâm chàng.
Nhưng, điều khiến chàng không thể thôi tự hỏi, đó là, có gì, đằng sau tấm voan đẹp mà nàng đã yêu cầu chàng hứa thệ sẽ không để bất cứ ai, kể cả chính chàng, lật ra mà khám phá?
Người ta đồn đại rằng tân hậu là yêu nữ, đang dùng hắc thuật làm mê mẩn tâm hồn chàng.
Nhà vua khẽ rùng mình, một tia rét buốt chạy dọc theo sống lưng.
Nếu không phải là phép lạ hay yêu tà, thì điều gì khiến chàng, đêm hàng đêm, ép nghẹn, hối hả, bởi một cơn thôi thúc cồn cào như nghiện ngập. Chàng, bỏ mặc mọi tuyệt thế giai nhân, yến tiệc linh đình, thú vui nhục xác, chỉ để lặng lẽ với một khao khát và thèm muốn tràn trề, tiến thẳng như bị hút chặt về phía khung cửi, nơi người con gái chàng chưa từng biết mặt và cũng chưa từng ái ân, đang say sưa thoi dệt. Chàng, rũ bỏ xiêm y, lắng nghe nàng hỏi han, những từ ngắn nhỏ, rơi ra, chỉ để lăn lóc vào sâu trong im lặng. Nắm chặt đôi bàn tay diệu kỳ của người con gái lạ lùng, như nắm lấy điểm giao thoa duy nhất của phận số hai người, chàng chìm vào giấc ngủ, yên bình và thỏa nguyện tựa trẻ nhỏ no nê sau cơn đói lả.
Khắc khoải suy tư, Thuận Vương đem mối hoài nghi không thể tiêu tan ấy đến với bà nội, người thân cẩn ruột thịt duy nhất còn lại của chàng.
---
Khi Thuận Vương tới, Vương Bà đang nằm duỗi trên giường, gối đầu trên nhung, một làn khói thanh mảnh mang theo hương thơm hoa uất tử luồn lách bao bọc lấy thân thể đã bị thời gian vò nhàu nhăn nhúm.
Bàn tay đồi mồi gầy guộc vẫn mang dáng thon dài buông thõng trên đùi một cách vương giả, khẽ vẩy lên. Lập tức những nữ hầu đang dâng thuốc thủ phục xuống, rồi khép nép khẽ khàng lui ra. Vương Bà hé đôi mắt, từ tốn hướng cái nhìn còn ngập tinh anh về phía Thuận Vương. Tất cả yêu thương chan chứa đầy tràn cái nhìn dịu dàng âu yếm ấy, trong lúc im lặng lắng nghe chàng tâm sự, với một vẻ tĩnh tại đáng kinh ngạc của một người già cả đã kinh qua hết thảy mọi biến cố thăng bại, sống chết của cuộc đời.
Thực hiện theo đúng lời Vương Bà, người mà chàng chưa từng một lần nghịch ý, Thuận Vương lặng lẽ rời tẩm cung, rời hoàng hậu, một thời gian, cốt để ngẫm ngợi.
Chẳng được bâo lâu, đương trong chuyến ẩn hành, Thuận Vương bàng hoàng nghe được những lời đồn đại kinh hãi. Người ta bảo hoàng hậu đã mộng thấy mình bay lên không trung trong lúc đạp dưới chân hai dải ngân hà. Khi tất cả các hiền triết giải mộng đều khẳng định rằng đó là điềm mơ diệt quốc, thì tất cả các vương phi, bá quan, hoàng tộc, cho tới dân chúng đều muốn giết chết nàng.
Thuận Vương hối hả trở về kinh thành vào lúc chiều tà. Nhưng hoàng hậu đã bị hành quyết dưới lệnh của Vương Bà, từ lúc mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh núi.
Nàng, phải chết chìm trong vùng nước xoáy, của chính dòng sông ấy.
---
CC,
04/2014
9.
Tự cầm tù, ngục mở tung, vẫn cố bám trụ còng sắt,
chẳng biết cách thứ tha, chính mình,
chúng sinh, hoài lang thang sống chết,
để cầu học một vị duy nhất.
Vị bao dung.
Trầm Kha.
Cậu, của mười năm trước, tóc rất dài, chỉ áo trắng, đã như cánh hạc quay lưng, bỏ mình đi.
Cậu, của mười năm trước, mắt thẳm bạc, dáng cao gầy, đã chẳng chìa cho mình, một cánh tay.
Trầm Kha, dù cậu biết.
Mình, của mười năm trước, đã mong lắm một sự đồng cảm, nơi cậu, như cần một động lực để tự cứu rỗi mình.
Nhưng Trầm Kha.
Cậu, của mười năm trước, mọi ngẫm ngợi và hành vi, cốt cùng, đều chỉ tập trung về con người mà cậu muốn trở thành.
Cậu, của mười năm trước, lắm hoang mang, chỉ biết có vẻ ngạo mạn nơi mình. Còn non trẻ, cậu chẳng thể thấy thấu những tâm tư, mình, rối bời, vướng dính giữa mạng lưới những tư tưởng đối lập.
Trầm Kha, bây giờ, cậu đã từng.
Để hiểu thế nào là tự day dứt, tự đầy đọa, tự cô lập trong thế giới hỗn loạn này.
Trầm Kha.
Mình, của mười năm trước, âm thầm gặm nhấm những nỗi đau, kinh tởm con người mình đang sắp trở thành.
Muốn tự sát. Muốn cứu mình. Muốn giải thoát. Muốn tự do. Cần hơi ấm. Cần mái nhà.
Mồ côi, mình đi tìm cha.
Trầm Kha.
Mình, của mười năm trước, đột ngột xuất giá, với người đàn ông mắt xanh rất nhạt.
Người chồng, thật tỉnh, thật trực, thật tôn trọng, thật bao bọc, thật mênh mông.
Người cha tinh thần, của mình, mình đã thấy.
Bi kịch Oedipe của mình, mình đã khỏa đầy.
Giờ đây, Trầm Kha.
Cô gái nhỏ, hết mồ côi, muốn lớn.
---
CC,
04/2014
10.
Chan chứa hoa, tiếng hát ca của tâm thức chẳng được nhìn nhận ra.
Nhặt những mảnh tiền ý thức vụn vỡ trong em, vào mỗi khi mắt đêm khép lại.
Lau chùi bụi cặn, giải mã giọt mộng em.
Tôi ngắm, chúng, ngời sáng lên đôi nguồn cơn cớ.
“Ta, Uy Trị Vương, đã rời xa quê nhà từ năm mười bảy tuổi, trong vai hoàng tử con, với một nhóm binh lính trung tín ít ỏi nhưng kiên cường.
Ta, cùng với họ, đã mải miết sống trên lưng vật chiến, ngủ vật vã trong những lều trại tạm bợ, định chiến lược, vạch bản đồ trên đá, gốc cây hay mặt đất cát hoang sơ.
Ta, cùng với họ, đã lên ngôi vua và để tang cha, trên chiến trường, giữa một rừng binh đao lóa rực tiếng reo hô của những chiến binh còn khét lẹt máu, mồ hôi và khói lửa.
Ta, cùng với họ, chưa một lần mòn tâm thèm muốn quay về cố hương, cho tới khi vùng đất ở cuối chân trời nhập vào vương quốc của ta.
Hai mươi ba năm ròng và đội quân của ta càng ngày càng đông mạnh, đất đai của ta càng ngày càng trải rộng, những kẻ căm hận ta cũng như những kẻ quy phục ta càng ngày càng tăng nhiều.
Ta, Uy Trị Vương, như các người, cũng đã trộn mồ hôi và máu với binh lính của mình, binh lính của các người, binh lính kẻ thù.
Ta, Uy Trị Vương, như các người, cũng đã đờ đẫn ôm trong tay thân xác nát bấy của từng chiến hữu và căm phẫn tàn sát, điên cuồng chinh phạt để cúng tế oan linh họ. Chân ta, như chân các người, cũng từng mỏi chồn trên những làng mạc tan hoang tràn tro nóng hổi, tai ngập những tiếng khóc than vỡ òa nguyền rủa lẫn hòa vào tiếng hò mừng vang dội chiến công. Thân thể ta, như thân thể các người, đã tắm tưới trong những dòng sông máu, đã chịu nhiều trận đói khát đến đến phát điên, đã kinh qua những cơn bệnh thập tử nhất sinh, đã chịu vô vàn những vết thương cho tới mức không còn biết đớn đau, đã thịt xương cứng cáp hơn sỏi đá và đã da dẻ chai sạn với nắng mưa.
Ta, Uy Trị Vương, hai mươi ba năm ròng rã, cùng các người, tiến công, phòng thủ, rút lui, mưu lược, vây hãm, thu phục, hận thù, chiến thắng. Ta đã trông thấy những đất nước huy hoàng sớm thành tro tàn trong ngọn lửa do chính ta nhóm lên. Ta đã trông thấy những thành quách kiên cố đổ sụp và những vị vua chúa kiêu hùng của chúng quỳ mọp dưới chân mình. Ta đã trông thấy cả cánh đồng hay thung lũng ngập đầy những đống thịt chết méo mó, nát nhầy và bốc mùi xú uế. Khắp vương quốc mênh mông mà ta đã mở mang, không nơi nào không có máu chảy đầu rơi, không nơi nào không đau thương tang tóc. Tên ta đã trở thành định nghĩa chiến tranh, và danh tánh quân ta đã trở thành nỗi kinh hoàng khiếp sợ.
Nhưng ta, Uy Trị Vương, vua của các người, đã mang lại vinh quang của sự bất khả chiến bại, cùng vô vàn của cải, đất đai và tài nguyên. Chiến lợi phẩm luôn được phân phát công bằng và quyền lợi của các người cùng gia quyến luôn được đảm bảo, như lời ta đã hứa.
Ta đánh bại mọi kẻ thù với tổn thất và rủi ro tối thiểu nhất cho cả đôi bên. Ta chỉ tiêu diệt kẻ địch nếu mọi cơ hội cho chúng đầu hàng và cống nộp bị chúng ngu xuẩn từ chối. Các thành phố và thường dân cư trú luôn được đảm bảo nguyên vẹn nếu chúng sớm chóng khuất phục. Ta đã giữ cho nhiều sinh mạng sống sót trong khi nhẽ ra chỉ cần một cái phất tay của ta là chúng tiêu vong. Tại những nơi quân đội ta tràn qua, không có những người già, đàn bà và trẻ con bị giết chóc hay hãm hại vô cớ, không có cướp bóc và không có dối lừa, không có lật lọng và điên đảo đen trắng.
Dưới gót vật chiến của ta, Uy Trị Vương, chỉ có chỗ cho những kiêu binh tài năng, trung thành và uy phục, không có đất cho những kẻ hèn nhát, bội bạc, vong ơn. Những tên bội phản luôn bị trừng trị công minh và những người trung thành luôn được trọng thưởng xứng đáng.
Và nay, phần thưởng quý báu nhất mà những bề tôi kiên cường, trung tín và bất khuất đáng được thưởng dụng, chính là đây !
Ta, Uy Trị Vương, hôm nay, đứng trước các người - những chiến binh kiêu hùng của những trận chiến huyền thoại, tuyên bố rằng, chiến tranh đã kết thúc, và hòa bình sẽ như ánh sáng hòa phủ lên tất cả những nơi cỏ cây và con người đã nằm rạp sau gót ta.
Các người, hỡi các chiến binh, hãy trở lại làm thường nhân, và đất đai các người chinh phục được sẽ trở thành vườn ruộng. Mỗi thần dân, cùng sinh mệnh và tài sản, cũng như sắc tộc cùng tôn giáo và tín ngưỡng của họ, sẽ được bảo vệ, bình đẳng với nhau trước luật pháp của ta. Mọi hình phạt sẽ được miễn thiểu và mọi sưu thuế sẽ được giảm trừ. Những con đường bộ và thủy sẽ đâm trồi như mạch máu đem trù phú bồi đắp khắp nước ta. Một hệ thống chữ viết và một loại tiền tệ duy nhất sẽ kết liền những nền văn hóa đa dạng của mọi dân tộc đã quy ngưỡng ta. Thương nghiệp cũng được khuyến khích như các ngành nghề khác. Thương nhân nước ngoài tới đế chế ta trao đổi bán buôn sẽ được hưởng đặc quyền gần như các đặc sứ. Giáo dục sẽ đứng đầu trong đại sự của quốc gia, và trẻ em sẽ quan trọng ngang như các dũng sĩ…
Ta, Uy Trị Vương, kể từ ngày hôm nay cho tới khi ta chết, sẽ cai trị đế chế mà chính ta, cùng các người, đã dựng nên này, để mang lại cho các người phồn vinh và sung túc, cũng chắc thật như những vương quốc, thần dân, của cải và sự khuất phục của chúng mà ta đã mang về.
Nhưng ta, Uy Trị Vương, vua của các người, vua của đế chế này, rõ biết rằng cho dù có vậy, chiến tranh và dư âm mất mát thương đau như tội ác ấy vẫn còn đây, trong lòng các người, trên những mộ bia, dưới các tầng huyệt mộ, cũng như trên gương mặt người con gái mà chính tay ta đã cứu sống khỏi tử thần, từ dòng sông này.
Nên ta, Uy Trị Vương, vua của các người, hôm nay, tuyên bố rằng, người đàn bà này sẽ trở thành hoàng hậu và xứng đáng nắm giữ những gì ta có được bởi chiến chinh. Gương mặt nàng, gương mặt mang tất cả nỗi đau đớn và hình thái nội tâm mà ta đã từng trông thấy, của những kẻ hận thù chưa thể nguôi ngoai, của những chiến binh chết không toàn thây trong trận mạc, của những kẻ hoài nghi, của những người trung tín, của những vị vua tử vong và những trung thần tuẫn tiết, của những người vợ mất chồng, của những người mẹ mất con, của những đứa trẻ mất nhà, của những đổ nát, của tro tàn, của hủy hoại… sẽ luôn ở bên ta, nhắc nhở ta về những điều ta đã hứa khả, về món nợ tổn thương xương máu, về sự chấm dứt khổ đau, về ao ước cuộc sống yên bình, công minh, phồn vinh và hạnh phúc...
Ta, Uy Trị Vương, sẽ thiêu đốt chiến tranh và hận thù, bằng cách phụng vì người đàn bà có gương mặt tàn tích thống khổ này. Nàng, kể từ giờ phút này, chính là hoàng hậu.”
Một không gian lặng tờ như cõi chết phủ xuống Uy Trị Vương, rồi bị xé nát bởi tiếng hô hò của vạn ngàn nỗi thống khổ.
Nhưng, Uy Trị Vương đã giấu kín trong thẳm sâu cõi lòng, thời khắc mà bàn tay đầy vết tích sương gió của ngài nắm lấy bàn tay người đàn bà chới với tuyệt vọng giữa dòng sông.
Kể từ thời khắc ấy, ngài đã không thể là chinh chiến vương thêm một giây nào nữa. Buông cởi võ phục, vũ trang, dã tâm, hoài nguyện, vinh quang, tổn thương và mất mát, lần đầu tiên trong suốt hai mươi ba năm ròng rã trong giấc mộng kinh hoàng, ngài trông thấy môi mình mỉm nở, oai phong quả quyết, một nụ cười mãn nguyện.
Mọi khát vọng đêm ngày thiêu đốt ngài, trong thời khắc ấy, bất chợt, đã đủ đầy.
---
CC,
04/2014
11.
Màu ghi xám, bầu trời cuối buổi chiều.
Mưa bất chợt, sau cơn nắng gay gắt, vô tình lúc ban trưa.
Gió lành lạnh, không có vẻ kiếm tìm, chỉ kéo tuột lá khô.
Dư âm xao xác. Mông lung. Nhẹ bẫng.
Buồn. Vỡ.
Trầm Kha, đôi khi, mình lại thấy, ngắn ngủi một thoáng giây, những con phố đầy bụi bặm nơi quê nhà. Mỗi lúc như vậy, mình thảng thốt. Mờ mịt bỗng phủ ụp lên tâm trí mình.
Ngay ở đấy, Trầm Kha, dưới chân những cây cầu mới xây, cạnh lề đường chen chân người qua lại, mình chẳng thấy ai, ngoài những người đàn bà đứng rao thân rực lên trong đêm tối. Bóng họ, Trầm Kha, đổ dài chảy tới tận dãy nhà nghỉ cao tầng san sát thản nhiên.
Ôi những nụ cười và ánh mắt..., nụ cười và ánh mắt của đám đàn ông đi ngang qua, hay dừng xe lại. Mình lại cảm dấy cơn buồn nôn.
Rồi thì, tất cả hào nhoáng chốn đô thành, chỗ vui chơi ngập trong ánh đèn màu trụy ảo, thoáng vụt tan biến đi. Mất tuyệt, như thể chưa từng tồn tại. Thế là, xuất hiện bóng nông dân, kẻ còng người dưới ruộng, kẻ hớp nắng phơi rơm, kẻ ngó mây xua gia cầm, kẻ gánh gồng oằn tre trúc.
Và những nụ cười, nụ cười còm khô, chấc phác, đăm chiêu. Mình lại cảm thấy cổ họng cay lắm.
Dư ảnh này rồi cũng tan biến, nhanh sao! Chỉ còn những đứa trẻ nghèo tã, áo thân rách rưới, da săn sắt lạnh; vô gia cư, người già cả đội nón lá còng cụi xin cầu; đàn ông giả tật nguyền, đàn bà giấu tím bầm, thai nhi nổi lềnh bềnh trong cống thối.
Và những nụ cười, nụ cười trong những đôi mắt đã lặn sâu trong hốc da đúa đen tới độ không trông thấy tia nhìn. Mình lại thấy đắng chát, khô quánh lại.
Trầm Kha, rồi thì cũng qua. Chỉ còn lại những nấm đất tròn um bên đường, những nghĩa trang trắng đầy bia mộ chi chit chữ, những tấm vải được treo cao còn đỏ ôi ối hay đã bạc phơ vàng.
Trầm Kha, mình, khi ấy, hai mươi ba tuổi, son môi hồng nhạt, chiếc áo tơ buông lả bờ vai ngang, nước hoa thơm phảng phất mùi nhẹ nồng, vừa mới nhận bằng đại học, vừa mới được thoát khỏi sàm sỡ đôi gã thầy giáo già, và đang lặng lẽ ngồi trong chiếc xe hơi sạch sẽ của một người đàn ông có chút tiền chút quyền, chẳng dám liếc qua khối vô thường vùn vụt đổi thay, không dám nhìn thẳng vào thân phận ai, trong lúc bào dần phẩm giá mình đổi chác lấy một nhúm thanh nhàn, một nhúm công việc.
Cứ trôi, như vậy thôi, mà nhức nhối. Trong mình, như thể có những tiếng gầm oai, tiếng tù và, tiếng trống trận, tiếng binh khí va đập vào nhau, rộn ùa tiếng reo vang, đôi khi, vẫn còn nguyên váng vất trong tai, rền vang như tràng sấm.
Trầm Kha, cậu có biết cái gì là lòng trắc ẩn không? Mình nghĩ, đó là một loại tình thương không xuất phát từ phẫn uất, là một sự an ủi rót ngấm vào tận đáy lòng, là cặm cụi tha lôi, dầu biết rõ, đến vạn kiếp, vẫn chẳng thể đỡ nổi một mẩu nhỏ nhân thế.
---
CC,
04/2014
12.
“Hỡi Uy Trị Vương, vị quân vương vĩ đại, xin ngài hãy lắng nghe ta, như lắng nghe một thần dân già cỗi vong quốc của nước ngài, kẻ đã từng hi sinh cả đời mình cho yên bình của vương quốc nơi ngài đang ngự trị, như lắng nghe một sứ giả thiện tâm kêu gọi lời hòa hoãn, như lắng nghe một người bạn xưa cũ của cha ông ngài!”
Vì Vương Bà đã thình lình lặng lẽ rời khỏi ẩn cung, lặn lội tìm tới ngài sau cả một đời sống xa cố quốc, và bắt đầu bằng những lời như vậy, Uy Trị Vương cúi người nâng bà cụ lên ngồi đối diện với mình. Trong lúc cẩn trọng lắng nghe người đàn bà uy nghi như núi nói, ngài lặng lẽ tìm kiếm bóng hình giai nhân ngày xưa mà ông nội ngài đã mê đắm, tìm kiếm người đàn bà đã gieo nỗi đau đớn suốt đời vị vương gia. Những giai thoại về một nữ dũng tướng tài ba, xinh đẹp và dũng cảm nhất lịch sử quê hương ngài, người đã mang trái tim đầy thương mến của ông ngài theo cuộc hiến thân vào mối hôn nhân chính trị, nhằm đổi lại lời hứa giao hòa vĩnh viễn cho quê hương nàng, đột nhiên ào ạt trở lại như một cơn gió xoáy.
Tuyệt nhiên, Uy Trị Vương chỉ còn thấy một Vương Bà già nua, quắc thước, đang dịu dàng nhìn ngài với đôi mắt được kéo xếch ngược lên phía tai bởi vô vàn những nếp da đan gập vào nhau. Ngài biết cái nhìn xa xăm kia không đổ lên mình, mà trôi về vời vợi mịt mù quá khứ, tìm kiếm lại bóng dáng của người đàn ông mà bà vẫn luôn yêu kính giữ gìn trong trái tim thủa trước. Sau một thoảng chốc, những lấp lánh thấp thoáng ủ dột, âu rầu và nuối tiếc hoài niệm lập tức lặn xuống sau tia nhìn đầy kiêu hãnh, kiên định và dẻo dai của một nữ chiến binh.
Không vòng vo, giọng trầm mặc quả cảm tựa tiếng chảy của một dòng sông mang đầy vị ngọt đắng cuộc đời, bà hoàng ca ngợi những chiến công vang dội của Uy Trị Vương, cùng lúc, gợi nhớ về những tổn thất nặng nề mà vương quốc của ngài đã phải gánh chịu, sau chừng ấy năm trường kỳ chinh chiến. Bà nói, tuy ngài là một võ vương uy dũng, đã dành về cả một đế chế lớn rộng tới tận cuối trời, thì đế chế ấy vẫn chỉ đang là một bãi đất phế hoang tàn đầy tang tóc và hận thù sau những cuộc chiến. Trong khi, phủ phục dưới chân Thuận Vương, cháu bà, dù trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm chiến trường, vẫn là những chiến tướng lỗi lạc tài ba, vẫn là một quân đội đông mạnh, hùng hậu, tráng cường, được hậu thuẫn bởi cả một quốc gia thịnh vượng. Nếu cuộc chiến vô ích này nổ ra, không thể biết trước được bên nào sẽ giành được chiến thắng, nhưng chắc chắn thất bại và mất mát sẽ thuộc về cả đôi bên.
Uy Trị Vương không ngắt quãng bài ngôn thuyết hùng hồn của bà cụ, nhưng trong thoáng giây tiếng bà hoàng chìm vào im lặng, giọng Ngài khô khốc, đanh thép, vang lên:
“Này hỡi Vương Bà, hãy nói cho ta hay. Ta, Uy Trị Vương, sau chừng ấy thời gian sống trong võ phục và ngủ trên chiến trường, lẽ nào lại không thể thấu rõ thực lực của chính mình và khả năng thành bại trước một trận chiến? Ta, Uy Trị Vương, không nhẽ lại đi cướp vợ của kẻ khác – việc hạ tiện mà cha chú của Thuận Vương xưa kia đã làm? Có phải chăng là chính y, Thuận Vương ấy, là kẻ chẳng bao bọc nổi một người đàn bà của mình, đang tâm để nàng bị cưỡng xô tới tận bờ chết - nơi ta cứu nàng sống lại? Có phải chăng chính y, Thuận Vương này, là kẻ dấy binh khiêu khích, phụ lời thề nguyền của tổ tiên mà phất cờ chiến trận? Có minh vương dũng tướng nào lại hao binh tổn của vì một người đàn bà? Trong tình thế này, ta là người giữ nước hay kẻ đi xâm lấn? Hãy nõi cho ta rõ nghe, Vương Bà ơi, điều gì xui khiến bà tới đây, phân bua với ta những lời lẽ nặng nhẹ này, mà không phải dành nhúm thời gian còn lại để dỗ bảo đứa cháu trẻ người thiểu dụng ấy?”
Lời Uy Trị Vương mềm dai tựa một dải lụa dùng để tuẫn tiết. Nhưng cái nhìn của Vương Bà là một tia sét xanh đâm xoáy vào đôi mắt sâu thẳm khó lường của Uy Trị Vương. Bà cụ nhìn thẳng vào vị hoàng đế oai nghiêm, như thế, một hồi lâu, theo cách mà tất cả chiến tướng can đảm nhất trên đời cũng chưa từng dám. Rồi chậm rãi và uy nghiêm, bà nói từng câu rành rẽ hầu như những cú đấm:
“Nhân danh cha ông ngài, Uy Trị Vương, hãy nói với bà lão rằng, ngài đã không phục đợi cơ hội hiếm có này, như một kẻ mang nặng mối thâm hận nhẫn nại chờ đến thời đòi cho dứt mối nợ nhục thù? Nhân danh đế quốc ngài, Uy Trị Vương, hãy nói với bà lão rằng, mảnh đất trù phú cuối cùng bên kia bờ sông, không phải là mảng sứt sẹo trong hình thế quốc gia, vẫn làm mắt ngài chướng gai khó nhẫn! Nhân danh chính ngài, Uy Trị Vương, hãy nói với bà lão rằng, Thuận Vương, vị vua chúa duy nhất ngang hàng với ngài, chẳng phải là cái ngáng mong manh còn lại cản ngài chạm tới hùng tâm bá chủ độc tôn? Ôi hỡi Uy Trị Vương, hãy nhìn vào cuộc đời già nua bị búa thời gian đập sắp nát rụi này, vào gương hình đã mòn nhẵn của ông cha ngài, ngài có thấy chính ngài chăng?”
Uy Trị Vương đáp lời Vương Bà bằng im lặng.
Thình lình, Vương Bà quỳ sụp xuống như thân cây mới đốn, và vị quân vương thấy những giọt nước mắt rơi xót chân ngài. Khi nhà vua cúi người, bàn tay xương xẩu của bà lão nắm chặt lấy tay ngài như hai cây gai găm móc vào vạt áo.
“Uy Trị Vương, con hỡi, xin hãy lắng nghe ta, như lắng nghe một bà già, ngoài tình yêu và kinh nghiệm thương đau ra, không còn gì để mất. Vết nhơ nhục thảm bại của cha ông con, xưa kia, đã được những chiến thắng hiển hách của con đền trả đủ và gột rửa sạch rồi. Đã tới lúc dừng quá khứ lại, buông lòng kiêu hãnh ra và rũ bỏ dã tâm đi, trước khi quá muộn. Con ơi! Xin con, hãy hứa khả cho, như ông cha của hai quốc gia đã hứa khả, rằng các con sẽ không bao giờ lấn quân qua nơi nào dòng sinh mệnh của bà lão này, hệt như dòng sinh mệnh của tổ tiên các con, còn ngăn chảy!”.
Uy Trị Vương nâng khuôn mặt bà lão lên. Những lời nhẹ nhàng rơi ra từ miệng ngài rót vào trong đôi mắt già nua một sự bất ngờ đột nhiên khiến bà lão nghi ngại.
“Vương Bà hỡi, có những điều giữa bà và ta không cần ngôn từ để thấu hiểu. Ta không thể ngăn điều bà dự định, cũng như bà không thể cản việc ta muốn làm, nên ta sẽ không buông bất cứ lời hứa hẹn ngàn cân nào đè vào sinh mệnh bà. Nhưng, hỡi mẹ của dân ta, dù vậy, mọi quyết định và di nguyện của bà đều sẽ được ta tôn trọng nhất thảy. Đúng vậy, hỡi Vương Bà, nếu có gì khiến ta dừng chân lại, thì đó chỉ có thể là điều ta có được từ người con gái mà ta quyết định sẽ phải trở thành người đàn bà của ta. Và đó là điều mà ta, Uy Trị Vương, hôm nay đã nói.”
---
Khi Vương Bà của hai dân tộc cắm lưỡi kiếm cong vào trái tim già cỗi của mình thì chỉ có hoàng hậu của cả hai quốc gia ở sát gần bên. Nàng lao tới như bị đẩy ngã về phía cơ thể nhỏ bé của bà cụ, cuống cuồng, lúng túng, không biết phải làm sao. Bàng hoàng tới độ không thể suy nghĩ gì, toàn thân nàng run rẩy, choáng váng vì hương uất tử sực lên, tựa mùi trăm ngàn cánh hoa bị dập nát đến rữa mủn.
Sau những ánh chớp vằn vện xé nát bầu trời chiều, một thác nước trút ập xuống từ trên cao, thô lỗ gần như cơn cuồng nộ. Giữa hai chuỗi sấm rền, nàng thoáng nghe tiếng Vương Bà cười lớn khi rút con dao ra, đâm ngập chuôi một lần nữa, vào chính thân thể bà, ngay giữa bụng. Nguồn nước ngầm bị cắt quãng đột nhiên, máu đỏ chảy vụt ra khỏi tim thành dòng. Mưa xối xả đưa sinh mệnh của Vương Bà chảy lan khắp mặt đất, nhập hòa vào dòng sông đen đang cồn cào nổi sóng.
Cơ thể bà cụ cong nẩy lên vì những cơn đau ào ạt, tay bà gấp gáp tìm kiếm và nắm chặt lấy tay người con gái đang cố bịt lại vết thương sủi máu ở ngực bà. Khi bà hoàng già chạm vào đôi bàn tay đang luống cuống nối liền chỗ vỡ nát của dòng sống mà bất lực, đôi mắt của bà cụ chợt nở ra như hai đóa hoa muộn thời, gương mặt dúm giật méo mó của bà nhẹ nhàng dãn căng. Chuỗi đau đớn của thân xác vừa bị một niềm hạnh phúc tột cùng xua đuổi cả.
Bình thản nhìn vào nỗi kinh hãi của người con gái trẻ, tay thôi run nắm chặt tay nàng lẩy bẩy, Vương Bà nói, giọng chìm vào tiếng khóc của bầu trời:
“Này con, là trò trớ trêu của định nghiệp lại cợt đùa chúng ta, đấy mà! Công bình bí hiểm của tạo hóa!… Ôi chao!… Con đã được bù đắp bởi đôi bàn tay nhiệm màu đến thế này… Bàn tay làm phỉ nguyện ước vọng của người chạm vào. Bàn tay đang giải thoát, cho ta, khỏi sự khốn khổ của ảo vọng…, hỡi ôi… lại kéo nỗi nuối tiếc… phềnh lên trong ta! Ồ kìa… khi mọi ước vọng của ta đã thành tựu… thì ta lại nghe thấy mình đang chết đây… Ta nghe thấy tiếng thở than lúc hấp hối… của chính ta… Giờ ta đã hiểu… điều mà Uy Trị Vương muốn nói…”
Vương Bà ngừng lại vì cơn co giật tiếp theo.
“Nhưng bất hạnh thay… con gái ạ… chính con… lại sẽ không bao giờ có thể chạm được một ước mơ…, dù giản dị nhỏ bé nhất của mình… Con không thể chết… Chí ít là… lúc này… Con gái ạ…”
Người ta nghe thấy tiếng Vương Bà cười, trong khi người con gái bật khóc.
“Này con…”, giọng bà cụ nhỏ yếu nhưng dịu dàng, chảy đều đặn theo những giọt sống cuối cùng, “Ta sẽ tặng con, một sự thật lớn lao của cuộc đời… Là nguồn cội của tất cả những bất công, thất vọng, và đau khổ… của ta, của con, của loài người... Con hãy mang nó bên mình, ngẫm ngợi… trong suốt thời gian để tang ta… Để xem… nó thật là… một món quà quý giá, hay lại là…một sự trừng phạt khắc nhẫn nữa...
Này con gái, người ta…, không ai chiến đấu…, hi sinh… và chết vì ai...
Mỗi người … chỉ chiến đấu…, hi sinh và chết… vì chính dục vọng của họ.”
---
Một tấm màn tang tóc phủ khắp hai vương quốc, bao bọc tất cả vẻ đẹp và sự huy hoàng bằng những lá cờ rũ buồn. Tiếng than khóc lan rộng ra như một cơn bệnh dịch. Hai đoàn quân đứng bên hai bờ sông, vũ khí cùng võ phục quấn chặt khăn tang, hằm hè nhìn đối phương bên kia bờ với gương mặt ủ dột đầy mâu thuẫn. Họ cứ đứng như vậy mãi, già nua đi, mỏi mòn ra, mà không ai nhúc nhích một chút nào, tới gần lời nguyền, qua dòng sinh mệnh.
Người ta thấy con sông chia cắt hai quốc gia đỏ quạch hơn, không phải vì phù sa mà bởi máu của Vương Bà. Trong lúc lăng tẩm bằng đá trắng nguy nga của bà hoàng được dựng lên trên một chiếc cầu nối liền hai bờ sông biên giới, họ rủa đồ rằng người đàn bà xú ám kia hẳn sẽ tự vẫn, vì nỗi ăn năn đầy ảm ảnh về những bất hạnh nàng đã gieo rắc vào cuộc đời.
Nhưng dòng sông không cần thêm một sự tự cắt đứt nguồn sống nữa.
Theo đúng di nguyện của Vương Bà, nàng sống để trông coi lăng tẩm của bà hoàng. Hai vị quốc vương thay phiên nhau viếng tang Vương Bà và phân ưu với chính mình, trong lúc nắm đôi tay nhiệm màu của hoàng hậu.
Kể từ ấy, người đàn bà khổ hạnh của cả hai quốc vương hầu như không ăn không ngủ, nàng chỉ làm một việc duy nhất là mải miết dệt ngày đêm, cho tới khi những ngón tay nát tươm, máu từ ấy nhuộm đẫm cả những mảnh voan kiều, rớt nở thành những bông hoa đẹp đẽ méo mó nhất mà người ta đã từng trông thấy.
Nàng cần dệt nên một tấm voan diễm lệ độc nhất, dài hơn cả sinh mệnh mình, dài hơn cả sinh mệnh của những quốc gia, dài cho vừa tầm dục vọng.
Là lúc nàng có thể chết.
Cùng với kết cấu xiêu vẹo của những giấc chiêm bao.
Nàng có thể chết.
Chỉ là, nào ai ngờ được rằng, mối duyên tình tay ba oái oăm kia đã như điểm bắt đầu của một nhánh rễ, sẽ cắm sâu, đâm tỉa, lan tỏa thành chùm duyên nợ chéo chồng rối rắm, đeo bám vào mảnh ruộng thân phận người, cho tới tận nhiều kiếp sống.
Một dòng chảy vô hình, khắc khoải, im lìm, không tiếng động.
---
CC,
04/2014
Yêu và hận, đôi bờ sóng mênh mông,
Thoáng lật lọng, loáng chuyển hình sương khói,
Oái oăm thay, kiếp nhân thế chuyển dời
Quân vương hỡi, đời đã chìm cõi mộng
Vĩnh biệt 25.o4.2o14
CC
Một ván cờ được thua cũng không thành, chỉ tại lỗi một ánh mắt.
Chực gặp lại giai điệu ấy...
vẫn còn bị da diết khả ái cứa đau buôn buốt,
về những chuyện đã quá quá xưa.
Vĩnh biệt o1.o2.2o15
CC
13.
Khâu, khâu, miếng thành y.
Nhuộm, nhuộm, màu hoại sắc.
Trầm mặc. Bước đi.
Trầm Kha, mình đã từng dụng công, cố sức... vẽ cho được một bức tranh khổ lớn, có một vị Phật. Nhưng kết quả là tất cả đều méo mó, vẹo vọ, không thể thành hình. Trong mình, ứa át nỗi thất vọng lớn lao!
Những vị sa môn, tĩnh lặng, luôn khiến mình cảm thấy bồi hồi và hân ngưỡng. Đôi khi, Trầm Kha, mình cũng không hiểu rõ, mình nhìn thấy đó có thật là người không, hay là những bóng dáng ám ảnh từ quá khứ lâu xa.
Mỗi khi tay lần vuốt mái tóc, Trầm Kha, điều duy nhất mình muốn làm là cạo phăng mớ tóc đi.
Có một nỗi khao khát, cuồn cuộn bên trong, đến không từ đâu cả, là rũ bỏ, chỉ để che trần trụi bằng một tấm vải vá chằng. Màu chiếc y, Trầm Kha, là một màu hoại sắc.
Thỉnh thoảng, Trầm Kha ạ, mình lại sợ, một loại sợ hãi, vô thức, mơ hồ, mà ám ảnh: là phải sống trong đau khổ, mà không thể chết bình yên được. Có một điều gì đó rất vắng vợi, quá vọng vang.
Trầm Kha, tất cả chúng ta, đều đang bị trói chặt vào một phiến đá, và thế là chẳng làm sao thoát được ra. Cả thảy đều quằn quại, nặng nề quá! Nhưng vì ham sống, đều vẫn luôn tự mị rằng ai cũng tiêu dao. Nếu nỗ lực gặp thời, đúng vận may, ta có thể chết vui. Còn phần lớn thì, ta đều chết trong đau đớn hay tiếc nuối cuộc sống chẳng mấy nhiều sung sướng.
Thế là, ta gọi cuộc thăng trầm đó là niềm vui sống, Trầm Kha, niềm vui sống, có thật không?
---
CC,
04/2014
14.
Lúc ấy, run rẩy trên vai tôi, Tú Thanh kể :
- Hôm đó, nhẽ ra là đêm tân hôn của muội. Sau mười sáu năm khiết bạch đau buồn, khắc khoải lết mòn mọi mảnh đất để tìm huynh, cuối cùng muội cũng đã vui cười được. Mơ ước của một người đàn bà, với cánh trượng phu các huynh lúc nào cũng có vẻ đơn giản và nông cạn, cốt cùng cũng chỉ mong một cuộc sống bình yên thôi. Muội đã mừng cho đò đời mình đến thế, kết cục cũng bám được cọc níu cho dừng dứt nỗi lạc trôi.
Thế mà, vừa hay tin huynh, Bối Sàm liền bảo : « Dù chưa mối lái cưới xin bao giờ, nhưng về lý thì trước nàng đã là người của nghĩa đệ tôi. Không biết thì thôi, nay đã có tin của Dật Khiên rồi, tôi quyết phải đi tìm nghĩa đệ.»
Muội liền tát cho huynh ấy một bạt tai. Rồi muội khóc. Muội hỏi : «Nếu nhất định phải chọn, giữa Dật Khiên và muội, huynh chọn ai ? »
Bối Sàm bảo : « Khổ tâm nhất là sự chọn lựa lý và tình. Nhưng nàng đã biết quyết định của tôi... »
Thế rồi huynh ấy bỏ đi. Muội liền đi theo. Muội muốn gặp huynh, để tát huynh một bạt tai. Tiếc là không còn cơ hội nữa.
Giờ thì, muội chỉ muốn hỏi huynh một điều này, Dật Khiên ơi, xin huynh thông tỏ cho! Muội chỉ là một người đàn bà thất học, còn huynh thì đã trụ trì cả một ngôi tự viện lớn, đã đăng đàn giảng Pháp có tới hàng ngàn tín đồ thính chúng. Huynh đĩnh ngộ siêu tuyệt rúng động nhân địa, đến cả nàng đương kim tiểu thư ấy cũng phải điên đảo vì huynh. Bây giờ, hẳn là huynh có thể nói cho muội hay, thế nào là tình, mà thế nào là lý ?
Ôi ! Tú Thanh! TúThanh ơi! Lúc này, trí tôi rối rắm lắm. Thân thể tôi rã rời. Kinh kệ lý luận, trước sự sống chết của nàng, và tình trạng nguy cấp của tôi, đều tán loạn hết rồi. Tôi hít một hơi thật sâu, nhưng rồi tâm vẫn loạn, loạn như nhịp tim của tôi vậy.
Trong đầu tôi, cứ chỉ váng vất mãi một câu: « Muội muốn gặp huynh, để tát huynh một bạt tai ». Câu nói ấy, khiến tôi đớn đau tan nát hơn cả khi bị một chiếc chùy sắt ngàn cân đập thẳng vào giữa đỉnh đầu.
Nhưng vì nàng thúc giục, nên tôi cũng cố đáp lời. Tôi bảo:
- Chủ quan là tình. Khách quan là lý. Mưu cầu là tình. Vô cầu là lý.
Điều ấy khiến Tú Thanh bật cười, như thể vừa nghe được một điều ngốc nghếch nhất cõi đời. Đột nhiên tôi thấy xấu hổ, ngượng ngập, vừa quê kệch, vừa thiểu học quá. Nên tôi cố vớt vát :
- Chấp có tôi, có của tôi là tình. Không có tôi, không của tôi là lý.
Tú Thanh lại cười. Tiếng cười tròn trịa như đang chế nhạo sự méo mó khốn khổ của tôi. Rồi nàng đột ngột trở nên nghiêm túc :
- Nàng tiểu thư ấy, thật là tội nghiệp ! Muội thương nàng ta lắm ! Cũng một người đàn bà bị làm cho tổn thương, dù rằng nàng có may mắn hơn muội là có thể gào thét, cào cấu, xé nát đời huynh ra, Dật Khiên ạ.
Giờ thì, Dật Khiên ơi, muội lại còn muốn biết rõ điều này, hãy nói thật cho muội hay, giữa Phật và muội, huynh sẽ chọn ai?
Ôi! Tú Thanh ! Tú Thanh ơi! Nàng khiến tôi bấn loạn. Còn rối bời nào hơn được thế! Tôi biết trả lời nàng sao đây, trong khi tôi cũng không còn tỉnh táo nữa, một bến lú đã lún đầy trong tâm tôi, lèn cả vào từng hơi thở, khi thân thể bé nhỏ thoi thóp như chim non của nàng, rũ nép trên lưng tôi, ngày càng trở nên nặng nề, trì trĩu. Mồ hôi của tôi tứa ra đã ướt đẫm ngực nàng, dính chặt chúng ta lại với nhau trong một thứ động chạm nóng nẩy.
Nhưng Tú Thanh chẳng đợi câu trả lời của tôi lâu được. Nàng thốt nhiên bật lên một cơn ho dài, như thể nàng không còn chỗ để nuốt chúng vào trong nữa. Ôi, mỗi tiếng ho chẳng khác gì một nhát dao nhọn bén găm chém vào trái tim tôi. Thảng nhiên, tôi sợ hãi. Tôi sợ nàng chết. Tôi sợ phải sống cô đơn khắc khoải suốt đời với những nỗi ám ảnh ân hận lớn lao, với một món nợ tính mạng ân tình không sao đáp đền nổi.
Sau cơn ho, Tú Thanh bảo, nhỏ nhẹ như tiếng suối ngâm nga:
- Thế là huynh uổng công tu hành rồi, Dật Khiên ạ. Huynh còn phải tu hành nữa, nhiều nữa, mới có thể thành bươm bướm được. Các huynh đều như nhau, đều nhả ra những danh từ mỹ miều cao cả, hòng nuôi lớn cái tâm ngài rỗng tuếch, chẳng chất chứa gì hơn ngoài một chất vị kỷ. Rồi chính các huynh, lại bị nó cột trói làm cho mụ mị hết thôi. Tên gọi chỉ là cái vỏ hổng, là tấm áo giả, gây toàn lầm tưởng hư dối thôi.
Những tiếng ho lại nảy rơi ra khỏi ngực nàng.
- Dật Khiên ơi, huynh mệt rồi phải không? Muội nghe tiếng huynh thở nặng nề, và bước chân huynh chậm chạp. Mà muội cũng khát lắm. Huynh hãy để muội xuống chỗ kia, bãi cỏ ấy, hoa thảo đường đẹp quá. Hồi ấy huynh đã hái tặng thật nhiều, muội tết thành ba chiếc vòng, lồng vào cổ tay chúng mình, lung linh như ngọc thạch. Những ngày tháng ngắn ngủi nhưng tuyệt đẹp nhất cuộc đời ấy, ôi chao!
Tôi đặt nàng xuống. Cổ đắng ngắt. Dường như những vòng hoa thảo đường vừa siết chặt cuống họng tôi.
- Dật Khiên ơi, muội muốn ngồi ở đây, lưng dựa vào tảng đá này. Từ đây, muội có thể thấy bầu trời, thấy dòng suối. Ánh nắng dưới suối kìa, đẹp tuyệt vời, một dòng suối ánh sáng, huynh có trông thấy? Chỉ có một màu thôi. Màu nắng! Ở đây, muội có thể nhìn thấy huynh, cúi xuống vục chiếc lá này, múc cho muội một chút ánh sáng. Bóng linh của dòng suối sẽ chiếu rõ huynh. Muội có thể ngắm nhìn huynh như thế, rung rinh và trong trẻo. Đã lâu quá rồi, Dật Khiên nhỉ, lâu quá rồi muội chưa được thấy huynh. Quả thực là, muội đã nhớ huynh nhiều biết bao… Nhiều đến thế!
Tôi ngắt chiếc lá khoai đương vươn ra, như sống chỉ để đợi chờ sinh hiến. Tôi nghe tim mình nghẹn lại. Tôi gần như không còn thở được nữa.
- Dật Khiên ơi, huynh hãy múc nước cho muội đi, từ dòng sông nắng kia kìa. Muội thật may mắn, thật hạnh phúc! Vì trong đời này, vẫn còn được ngắm nhìn huynh, giữa quang cảnh đẹp đẽ bình yên này.
Tôi lảo đảo đi ra gần bờ suối. Nước trong vắt và lạnh lẽo cứa vào tận tủy xương. Tôi uốn cái lá thành hình một chiếc phễu. Tôi cúi xuống. Tôi thấy bóng mình, lem luốc, nhớn nhác, tiều tụy, đột ngột trở nên đen đủi và ti tiện, so với cả một bầu trời trong xanh lặng ngắt phía bên trên. Một nỗi hốt hoảng kinh sợ xộc lên, xâm chiếm lấy tôi.
Vội vã tựa một tên tù đảo ngục, tôi chạy trốn khỏi dòng suối, hai tay bưng lấy chiếc phễu đầy thứ nước trong veo, sóng sánh như lưu li. Tôi quay lại. Tôi trông thấy Tú Thanh. Nhưng tôi không thể tiến gần nàng hơn được. Toàn thân tôi run rẩy. Mọi sức lực đã tuồn hết ra khỏi cơ bắp tôi.
Tôi quỵ xuống.
Bụng tôi quặn lại. Tôi co gập cả người mà không thể ngăn đỡ cơn xé đau.
Những giọt nước tung tóe lăn tán khắp nơi. Đám sỏi khô hút cạn tất cả.
Ngón tay lẩy bẩy bứng lấy mặt, tôi gào lên, tiếng rên rỉ câm lặng thốc tháo đổ cả vào bên trong. Nước mắt không thể chảy ra, dù chỉ một rỉ giọt.
Tôi chưa từng chịu đau khổ nào cùng cực hơn nỗi đau khổ không thể thoát ra này.
Mũi tên nằm trên bàn tay đã duỗi ngón sau cơn co giật cuối cùng của Tú Thanh vẫn nhỏ máu. Một màu đỏ ối còn sủi khí đã loang lổ trên cả thân thể nàng, thẫm đỏ đám cỏ xanh lẫn những bông hoa trắng nhỏ đang lung chuyển xung quanh.
Tất cả đều chỉ còn là một màu đỏ quạch.
Nhuộm bầm tiếng gió khóc.
---
CC,
04/2014
15.
Đôi mắt nâu rất tím, em, vẫn từng, gợi lên trong tôi một niềm e ngại, mỗi khi, như chạm vào sự mong manh và chóng vánh của thế gian.
Niềm an ủi duy nhất của tôi, nơi góc chiêm bao em, đôi lúc vô cớ bị cắt ngang, một hồi. Ngắm mộng em, đôi khi vỡ vụn, chỉ còn lại những ảo ảnh, do vặn vẹo thành ra bất khả thi, tôi sợ phải chứng kiến tâm hồn mình sẽ trở nên méo mó, nhanh hơn bất cứ sự biến hóa nào.
Như em, tôi cũng đã lo hoảng rằng vài biến cố dị thường, một ngày kia, sẽ đột ngột đổ tới, cuốn tôi vào giữa lòng thung lũng trống rỗng tối đen của những chuỗi vô vị thường ngày.
Vì lẽ ấy, mà, phải chăng, chiêm bao nào, vẫn tiếp thời buông bẫy.
---
CC,
04/2014
16.
Mà nước xót nào đã bắt đầu thôi rớt rơi,
khi nhìn ngắm nỗi biếc đau đã bớt rồi tím tái
Hôm nay, Trầm Kha, là đúng mười năm. Mười năm, ngày mà người đàn ông ngoại quốc trọng tuổi xa lạ, chưa từng gặp, ấy, chìa cánh tay ra, kéo mình lên, lúc mình chực ngã. Và đôi bàn tay rắn rỏi ấy nói với mình: “Em ạ, chúng ta đã quen biết nhau!”.
Lời đầu tiên, mình hỏi đôi mắt xanh rất nhạt: “Ông có biết chơi nhạc không?”
“Không! Tôi thậm chí không thể phân biệt được các giai điệu.”
Mình chết điếng. Thế là, chính lúc ấy, mình biết, đã tới lúc. Mình sẽ đi theo. Đây, chính là người đàn ông.
Trầm Kha, thôi được, mình sẽ kể cho cậu nghe, về giấc mơ thủa thiếu nữ này. Giấc mơ đưa mình tới một Châu Âu thế kỷ mười tám, mà mình chưa từng bắt gặp, thậm chí trong những thước phim hay những cuốn tiểu thuyết.
Căn biệt thự, Trầm Kha, căn biệt thự đá trắng mới đẹp làm sao. Hoa rất thơm, cây rất xanh, khí rất thanh, phố rất vắng, chỉ có âm nhạc, tiếng phong cầm, một người nghệ sĩ rong. Người đàn ông ấy, bộ đồ đen, cái mũ đen, mắt xanh nhạt, đúng một giờ, ngày lại ngày, với cái lạnh tê tái cả đôi bàn tay. Đôi bàn tay ấy...
Dựa vào cửa sổ, Trầm Kha, nàng thiếu phụ quý tộc mới cô côi làm sao. Xiêm y nhã, tay thanh tao, dáng mảnh cao, lòng thật đau. Nàng ấy, hiểu tiếng nhạc. Tiếng nhạc ấy, hiểu nàng. Giá buốt. Thầm lặng. Họ yêu nhau. Một tình yêu xa cách, tuyệt vọng.
Trầm Kha, cậu có biết, là như thế nào cảm giác của những cú xóc, khi ngồi trong chiếc xe ngựa đen lăn nhanh trên con đường lát đá của những khu phố Châu Âu cổ cũ? Đã có một cuộc trốn chạy, khỏi cuộc hôn nhân, Trầm Kha. Loang loáng, con đường ẩm ướt lắm! Đã có một người chồng, rất yêu, Trầm Kha, để cứ mải miết đuổi bắt lại một trái tim. Trái tim nàng lại đã bay theo tiếng nhạc rong. Tiếng phong cầm của người đàn ông, Trầm Kha ơi, thì đã tắt lịm, vì những ngón tay tím xanh gãy xuôi trên phím trắng.
Biển. Trầm Kha. Cậu có biết mình thấy gì lần đầu tiên đứng trước bờ biển đầu đông Châu Âu không?
Ghi. Trầm Kha, tất cả đều mầu ghi. Thứ màu thê lương mà mình đã thấy, trong xám thẳm giấc mơ thời niên thiếu xa xôi kia vậy.
Ướt. Trầm Kha, những xót xiết. Thứ mưa không thành giọt đã châm chích đẫm lòng, sũng cả mộng mị.
Lạnh. Trầm Kha, cái lạnh buốt tái toàn thân. Thứ lạnh tê dại mà mình đã cảm thấy, tỏa giá giấc mơ thủa nào.
Giấc mơ đó. Trầm Kha. Váy đen bồng. Mắt biếc xanh. Tóc quẩn quăn. Những lọn thật dài, óng ả xõa tung vào làn gió ẩm ướt mùi muối, chát mặn đến quánh lòng.
Trước biển, Trầm Kha, chẳng cần trốn chạy. Trước mênh mông, dường ấy, ai còn có thể đi đâu?
Biển, Trầm Kha, có thể ôm mọi nỗi đau khổ, tuyệt vọng, vào trong đáy mình.
Ngoảnh quay lại, thiếu phụ ấy nhìn.
Cái nhìn ấy, ôi, Trầm Kha!
Rồi, mình, mình trông thấy...
Mình... Mình tiến vào trong biển.
---
CC,
04/2014
17.
Em vẫn nhớ lần duy nhất tôi đưa em về căn nhà em thuê. Tối hè nhiệt đới muộn màng, nóng ẩm. Xe máy tôi mượn có tiếng động cơ kinh hoàng, đánh thức cả khu tập thể tồi tàn. Oi ả, lồng lộng, trời một màu tím than. Không thể trông thấy dầu chỉ một vì sao.
Chỉ cho tôi căn hộ trên tầng ba, đèn tối om, giữa những khung cửa sổ sáng đèn và tiếng ti vi ồn ã. Em lầm rằng tôi đã không hứng thú muốn biết gì thêm, về nơi khó khăn lắm em mới thuê được, vì tôi lại mải miết luyên thuyên về cô gái mới làm nghiêng điếng trái tim mình và những người bạn của cô gái ấy, tôi đã cứ mải nói, họ sống trong khu nhà trọ sinh viên, eo hẹp lắm, từ rất lâu rồi.
Cắn môi son rất nhạt, em chẳng hề cắt ngang: so sánh có thể đã làm đau lòng nhau, có những điều nhìn bề ngoài làm sao mà biết được!
Đu đưa chân ngồi trên yên xe tôi, lắng nghe tôi, rồi em bỗng bảo:
“Trầm Kha để mình kể cho cậu nghe, thời còn là sinh viên, mình cô độc, hầu như không hòa nhập với những bè bạn ngoại tỉnh xung quanh, nhưng thỉnh thoảng, mình ghé thăm họ. Họ bảo, ở đây, bọn mình ăn chung, học chung, yêu chung. Đùm bọc lấy nhau để chia sẻ cuộc sống gian khó. Có nhiều chuyện buồn, cũng có tranh chấp, tổn thương, mất mát, nhưng phần lớn là rất vui. Chỉ có một trở ngại khó chịu đựng thôi. Đến cuối tháng, lúc hết tiền, vài ngày bị đói, đôi phen, cứ như bị mắc kẹt ở vùng nước lũ, chỉ ước được gặp người tiếp tế dầu chỉ chút vớ vẩn gì để ăn.
Mình thích ngồi trên những chiếc chiếu mỏng, trầm tư ngắm những bức tường sần sùi được phục sức lạ lẫm bằng lịch, báo và giấy gói quà, những chiếc bếp dầu và những lọ nước mắm, chỉ để nghe bè bạn giãi bày về lối sống đùm bọc xa nhà, là lạ mà cũng hay.
Mình thích ở đó, chỉ để quan sát những chàng trai hàng xóm ở trần lượn lờ qua lại, đám con gái trẻ trung có nụ cười rất duyên gọi nhau đi tắm hay nấu cơm.
Mình thích ở đó, chỉ để lắng nghe những giọng điệu mang đặng mọi vùng quê trên đất nước kể về những câu chuyện cuộc đời.
Trầm Kha, mình, chưa từng là một thành phần trong lối sống đùm bọc vui khổ của những khu nhà trọ sinh viên, nhưng mình giao cảm được với họ, ở những cơn đói, đống trăn trở tiền tài và danh vọng, cốt để tồn tại ở đời. Trầm Kha, mình, chưa từng có cảm giác bần tiện, cho dù trong túi hầu như chẳng có tiền. Ngoài những nhu cầu thiết yếu nhất để sinh tồn và đi lại, mình đã không đòi hỏi gì thêm. Chẳng có mấy vật chất để bị lấy mất. Yêu chung thủy một chàng trai du học, ít giao tiếp, hầu như không hội họp bạn bè, tiết kiệm từ mọi chi phí, không phục sức và chẳng điểm trang. Chọn một việc tự chu cấp cho cuộc sống sinh viên giản đơn: dạy kèm những đứa trẻ ngỗ nghịch. Gia sư, với mình, là phóng khoáng chia sẻ mà không áp đặt, nên mình đã thường hay mất việc. Trầm Kha, cậu có biết thế nào thật là nghèo không?
Trầm Kha, mình là thạc sĩ, mới tốt nghiệp, vừa chia tay người tình sinh viên, chạy chọt xin xỏ cũng được chân thực tập trong một cơ quan khoa học nhà nước. Công việc của mình là làm tất cả những việc mà người khác không muốn làm, chèo kéo giữa mọi phe phái công kích lẫn nhau, công tác tỉnh thành chủ yếu là để học cách giúp các sếp dưới bợ đỡ các sếp trên, tiếp thu những kinh nghiệm nghề nghiệp bằng vốn tự có quý giá của các nữ cộng sự, đồng thời làm an lòng họ bằng thói giả vờ rụt rè, ngớ ngẩn, ngu ngơ đến ngây ngô… Trầm Kha, ở môi trường này, có những kỹ năng không thể học được ở bất cứ giáo trình nào suốt mười chín năm mình nghiên mực, lại là hành trang thiết yếu để giữ việc và giữ mình. Trầm Kha, ở đâu cũng đều như vậy cả, phải không, đầy rẫy hào nhoáng bên ngoài, cốt để che đậy những chuyện tham nhũng, kèn cựa, thủ đoạn, mưu mô, nịnh bợ, bóc lột, cưỡng đoạt, đồi trụy, dâm ô… thối rữa tự cốt lõi bên trong.
Cuộc sống, giản đơn, là vậy. Mà, Trầm Kha, cậu biết không, có một cái gì đó rất sâu thẳm đang âm thầm chết dần. Nhục nhã có thể giết chết con người ta. Việc mình có thể làm, có lẽ, chỉ là chấp nhận sự thể và cố không suy nghĩ gì nhiều cả.
Ai mưu sinh mà chẳng phải tự giết mình chậm chạp như thế. Mình thì, vì gì cũng chẳng biết nữa. Có lẽ bởi chút ít ỏi tiền, chỉ đủ trang trải cho căn phòng thuê, ấy, ở trên kia. Mình sống, gọn gàng trong trống rỗng. Nếu cần, có thể lang chạ tinh thần ở bất cứ đâu - vui vẻ với những người cô đơn quen biết trên mạng, câu kiếm cảm giác an toàn thoáng chốc. Có vẻ tùy tiện, nhưng không hẳn thế đâu. Nơi muốn trở về vẫn là căn hộ độc thân này, Trầm Kha, chỉ riêng mình. Ốm lăn lóc không thể động cựa, đắng cay, vẫn một mình, ở trong.
Trầm Kha, nhà, là nơi không một người nào khác có thể xâm phạm tới, dẫu đã đâm xuyên vào thân thể hay cắm rễ hẹn hò hòng hứa bám tương lai.
Trầm Kha, nhà, là chỗ giấu giữ những gì còn sót lại. Một chút không gian, tháo chiếc mặt nạ, để thở, trút bỏ uẩn khúc, được là chính mình.
Trầm Kha, cậu có nhà không ? Cậu có biết cái giá của có nhà không?
Với mình, cái giá ấy, là đói, Trầm Kha ạ ».
Rồi, thình lình, hôn hờ vào hai má tôi, em thì thầm: Trầm Kha, mình đang mặc kệ những đôi mắt xếch tọc mạch đang dòm qua song cửa, kia kìa, hãy quên họ đi và coi như chỉ có hai đứa mình, dưới bầu trời tím thẫm. Lạ lùng nhỉ, Trầm Kha. Tạm biệt nhé, chúng mình sẽ gặp lại nhau, ở đất nước của cậu. Trầm Kha, giờ cậu hãy đi, và tìm lại mình khi mình tới nơi cậu!
Đó là lần cuối cùng, với em, ở Việt Nam.
Đó là lần cuối cùng, với em.
Đó là lần cuối cùng.
Tôi biết, rằng tôi đã lỡ...
---
CC,
04/2014
18.
Hư Vân Tự, Tùng Mặc Sơn, buổi sáng mùa thu ấy, một đứa trẻ sơ sinh im lìm trong bọc vải được tìm thấy trên đụm lá bồ đề khô, phía trước cổng chùa. Gương mặt của đứa bé, đầy nét hỗn tạp giống loài lạ lẫm, hầu như đã tái dại đến mức người ta chắc hẳn cái chết đã làm đông cứng nó rồi. Dù là vậy, với một sự kiên tâm khó lý giải, trong suốt nhiều ngày lẫn đêm, sư trụ trì ủ ấm đứa con lai trong chính lòng thầy, cẩn trọng bón nước thuốc loãng với sữa dê cho tới khi sinh sắc nhợt nhạt trở lại hồng hào, và tiếng khóc đã nghẹn của đứa trẻ váng vọng khắp chùa.
Chẳng giống những phàm phu tục nhãn khác, sư trụ trì chưa từng để lòng vào sự bại hoại tiết trinh của người mẹ lăng loàn - đã nhẫn tâm bỏ rơi đứa bé ngay sau khi sinh ra. Thầy cũng không vướng tâm bàn tới thói dâm lạc của người cha ngoại quốc - có lẽ chẳng mảy may biết là đã có một giọt giống nòi của mình vừa sinh trưởng vào đời. Thầy chỉ thấy những dị tướng thiên bẩm hòa hợp tứ đại trên thân thể một kẻ có cơ may thành đạo, thôi thúc thầy trong ý nghĩ cần nuôi lớn thánh nhi này. Thầy chỉ thấy một tình yêu thương vô căn cứ trào dâng tự đáy lòng, nung nấu thầy trong ý thức cần có một đệ tử như nó. Và thầy muốn gọi đứa bé là Dật Khiên, kẻ vác gánh trên vai những lầm lỗi.
Thế mà, không như thầy mong mỏi, đến tuổi đôi tám, chú tăng Dật Khiên, càng khôi ngô tráng kiện bao nhiêu, lại càng nhãng kệ sao kinh bao bấy. Hễ cứ đến thời khóa tu tập, nếu không ngủ gục, chú cũng mải ngắm đất nhìn trời, phiêu diêu không dừng trong những giấc mộng cánh chim. Chữ nghĩa, văn chương chảy vào đôi mắt nhạt của chú, mà cứ tràn hết cả ra ngoài, như thể đầu chú là một cái thùng xinh đã lèn đầy những gì khác không ai hay biết được. Ngay cả củi lửa, bếp núc, quét dọn, lau chùi, những chuyện nhỏ nhặt ấy, chú Dật Khiên cũng vụng về, cẩu thả. Chỉ có việc đẩy xe xuống núi chở lương thực, hay vào làng gánh nước giếng về chùa, là được Dật Khiên thực thi hết sức chăm chỉ và tận tụy, tới mức người ta tin là chú sinh ra để làm mỗi việc tay chân nặng nhọc ấy.
Nhưng Bối Sàm hay biết tỏ tường sự thể. Hẳn nhiên rồi, chỉ một cái nhíu mày của Dật Khiên thôi là Bối Sàm hiểu ngay chú tăng đang suy tư chuyện gì, thì làm sao Bối Sàm lại không biết tâm sự mà Dật Khiên đang vướng rối. Thế mà lần này, khác biệt hẳn với những chủ động ngày xưa, Bối Sàm không căn vặn hỏi han, cũng không tự động tìm cách giúp đỡ bạn, mặc dù nhiều lần, cậu đau lòng bắt gặp Dật Khiên âm thầm khóc, sau những lúc rời chùa, nấp hàng giờ dưới những tán hoa dâm bụt đỏ bầm, chỉ để mê mẩn ngắm cô thợ thêu hoa khéo nhất trong vùng. Với mối tâm sự diệu vợi uẩn sầu, Bối Sàm đợi tri kỷ lên tiếng, trong một nỗi lòng mâu thuẫn, hoang mang vô định.
Vì, Bối Sàm biết, như Dật Khiên, từ lâu cậu cũng đã vướng chân vào mạng lưới ái tình lưu luyến với nàng thiếu nữ xinh đẹp ấy. Cũng như cậu biết, với một kẻ khoác tướng mạo xấu xí như mình, thì cơn mê yêu kia chỉ là một mối tình tuyệt vọng.
Dầu vậy, Tú Thanh, hai tiếng vẫn vang vọng trong đầu Bối Sàm hệt những tiếng đập đều đặn, mỗi lúc một váng vất thêm, của một guồng giã không bao giờ dừng nổi, vì được chuyển xoay bằng dòng suối nguồn nước đang quá dâng cao. Cậu mầy mò trong đống ngôn từ hư ảo, kết thành hàng trăm khổ thi tuyệt xuất, để ca ngợi, để hình dung, về đôi mày xanh, làn môi đỏ, cánh mũi thanh, mái tóc mượt, bàn tay búp, dáng người thon, những đường nét tao khiết đã khắc vào tâm tư cậu như một bức khảm đồ tinh tế tiêu biểu trên một phiến đá nhẵn trắng phau, không gì huỷ hoại được.
Quãng thời gian dài dặc gian khó của tuổi thành niên chậm rãi trôi qua, Bối Sàm cứ mải miết dệt mộng mơ lên những bài thơ tình bí mật để khuây khỏa nỗi niềm vô vọng, cho tới hôm Dật Khiên nói:
- Huynh Bối Sàm ơi, nỗi đau khổ này thật khó nhẫn chịu quá! Đệ như mảnh đất cằn dưới thời hạn hán, không có Tú Thanh, đệ sẽ nẻ nứt, vỡ toách từng cục, mủn thành cát bụi, rồi chìm nghỉm vào sa mạc vĩnh hằng mất thôi.
- Thế còn đường tu hành của đệ thì sao ? – Bối Sàm âu sầu hỏi, đưa mắt nhìn đám bóng nắng, nhún nhảy, đu đưa, luồn lách, rụng vỡ giữa những tán lá cây.
Dật Khiên lắc đầu. Chú thổ lộ với tri kỉ rằng số phận run rủi đẩy chú tới cửa chùa khi còn là một hài nhi, chứ chí nguyện của chú nào phải là xuất gia thành đạo. Thân thể chú nương đậu cậy nhờ ở chốn tịnh thanh, nhưng đêm ngày chú vẫn không ngớt nổi tâm nhung tim nhớ. Âu cũng là duyên nợ với đời còn say đắm cả thôi.
Rồi chú năn nỉ, Bối Sàm huynh, xin hãy làm con thoi tơ hồng thêu dệt cho thành một mối lương duyên. Lúng túng, thẹn thùng, Dật Khiên dúi vào tay bạn những bức thư nguyệch ngoạc vụng về mà chú viết, nhờ tri kỷ gửi tới nàng Tú Thanh, để thổ lộ mối tình khắc khoải đang vần vò lòng chú.
Tâm tan nát, Bối Sàm nghĩ, ta phải làm mọi cách để Dật Khiên có được tình yêu này, ta phải làm mọi cách để Tú Thanh có được hạnh phúc ấy. Với thiện ý tràn đầy, lồng lộng tâm, Bối Sàm đem những tình thi của mình thay thế cho đám câu ngữ thô thiển của Dật Khiên. Sự thể muộn rầu đã bắt đầu theo đôi cách lỡ lầm, như vậy.
Trước một khối hòa hợp tinh thần và tài năng thơ phú như Bối Sàm, cùng với vẻ đẹp thể chất tuyệt mĩ như Dật Khiên, Tú Thanh chẳng có gì để chống che cho cõi lòng trào nghiêng rúng động, trước cơn bão tình yêu mãnh liệt là thế. Bất lực, khi trực giác cho nàng hay, kể từ phút nàng nhận lời yêu Dật Khiên, chính là lúc bất hạnh và mất mát đã túm lấy cuộc đời nàng, xiết chặt. Vì nên, một tâm hồn hiểu nàng như thể đọc chính tâm tư mình, sẽ là hoàn hảo nếu nằm trong một thân thể vẹn toàn khôi ngô dường ấy. Nếu có một người như vậy, thì người đó hẳn sẽ khiến nàng yêu mê đến mụ đời, và chính là người sẽ huỷ hoại nàng, bóp nát nàng trong đau khổ.
Sư phụ của Dật Khiên chẳng bao lâu sau cũng đoán hay đệ tử kỳ vọng nhất của thầy đang vướng phải nghiệp si. Thầy cũng nhận ra, bất chấp sự thương tiếc đằm đậm của thầy, bất chấp mọi phương tiện khuyên lơn, cấm răn hòng bảo vệ thai đạo của thầy, như thể vẽ râu vào mặt trăng, không có bất kể điều gì tác dụng nổi lên luyến ái tâm của chú tiểu. Sự bất lực ấy khiến tâm thầy bất định, và đôi khi thầy cảm thấy tàn than sân giận vi tế nhất vẫn còn nhen nhúm cháy ở phía rất thẳm sâu.
Rồi cũng tới ngày, như phương cách tuyệt vọng cuối cùng, thầy quyết phải đánh phạt Dật Khiên khốc liệt, trước khi nhốt chú vào kho, cấm cố chú trên núi, không cho chú rời chùa. Thầy chỉ không ngờ rằng, cho tới hết đời kia, thầy sẽ không bao giờ còn trông thấy Dật Khiên thêm lần nữa. Thầy càng không tưởng tượng được rằng, nỗi đau đớn của thầy sẽ như di chứng từ một vết thương sâu, mà thầy sẽ dành nhiều thời gian chuyên lòng chữa trị mới có cơ lành lặn.
Vào một hôm tối trăng, Dật Khiên đã lẻn trốn khỏi chùa, cùng với Bối Sàm, đem nàng Tú Thanh bỏ đi rất xa.
Trời đầy nắng mưa rọi phương cho lối sống phiêu bạt, nhiệt huyết tuổi trẻ và khao khát ước mơ nâng niu những tâm hồn non dại si mê. Họ lướt qua đồi, băng qua núi, xuyên qua những rừng cây rậm rạp, rảo qua những đồng cỏ thênh thang, dạo qua những làng mạc an bình, đi qua những thị trấn sôi động... Họ học hỏi bao nhiêu điều hay. Họ nhìn thấy bao nhiêu cảnh đẹp. Họ hân hoan tận hưởng cuộc sống ngoài vòng cấm kị, bắt đầu từ những mật ngọt mà tình ái rót đầy chén thong dong. Nhưng chẳng bao lâu sau, họ kết thúc bữa mê say bằng những mảnh món đắng cay, chát chúa tiếng rơi của đôi cơn mộng mơ vỡ.
Dục lạc không thể là tất cả, mà có thể dẫn người ta tới một chỗ trống hổng vô vọng đến kinh hoàng.
Người đầu tiên phát hiện ra sự bất xứng tuyệt vọng này chính là Dật Khiên.
Bất chấp niềm vui tục khi được ôm ấp thân thể khiết bạch của Tú Thanh, mỗi nghe âm thanh mảnh mai rơi rụng thành những thi khúc xa lạ mà nàng âu yếm nâng níu bảo là của chàng, Dật Khiên thấy mình bị bủa vây trong cơn mỏi mệt của một người suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu đố hiểm. Không ngừng nghỉ, chàng buộc phải cật lực mải miết chạy đuổi theo những ý tưởng phiêu diêu diễm mộng, nhưng chàng lại đuối sức, tới độ, không bao giờ có thể chạm tới đủ đúng tầm đồng điệu với tâm thể Tú Thanh. Cảm thấy bất lực, lòng Dật Khiên đau đớn, vì ngu độn và tổn thương, tựa thể bị xúc phạm vào nơi dễ rách nát nhất. Cay đắng hơn, giống như chàng, dường như Tú Thanh cũng nhận ra điều lệch lạc, mơ hồ linh cảm thấy bóng tối của sự mất mát đang luẩn khuất xung quanh. Kiên nhẫn và âu yếm không xua đuổi nổi làn khói hoang mang đầy những vấn nghi, ngày một đùn đặc thêm. Hố thẳm giữa họ không chỉ còn là một đường rạn nứt mảnh khảnh thanh tao nữa.
Dật Khiên, thêm một lần, bỏ đi vào giữa đêm khuya.
Lần này, chỉ có mình chàng, cô độc dưới bầu trời ngập sao, sải những bước chân nặng dài, đầy tâm tư trách ẩn. Chàng miên man nghĩ mãi về Tú Thanh, về Bối Sàm, về chàng. Những ý nghĩ đảo cuồng luôn trôi về lòng tự trọng cứ giày xéo chàng, khiến tự tôn của chàng tưởng như suy sụp hẳn. Một chút ân hận đầy chua xót thoáng trào qua khi Dật Khiên nhớ tới ánh mắt của Bối Sàm tan nát, lúc ngã chúi xuống cỏ vì cú đấm trời giáng. Chàng đã không thể ngăn được cơn điên ức, khi người bạn thanh mai thú nhận trọn nguồn cơn, về mối tình âm thầm và những bài thơ tình của cậu dành cho Tiểu Thanh. Khi này, Dật Khiên, còn quá trẻ để chịu đựng khối hi sinh lặng thầm của tri kỷ, cố chấp vào mặc cảm tâm hồn mình chưa từng có được tình yêu đích thực của người tình, chàng lại muốn gào rít lên vì nỗi đau đớn bất lực đè nặng trên tâm trí.
Đầu óc mụ mị, mịt mờ, Dật Khiên nhớ về những lời Kinh. Nỗi thống khổ của ái dục đã từng được cảnh báo làm tái lòng chàng, giội xuống chàng một cảm giác vừa ăn năn, vừa tiếc nuối. Lần đầu tiên trong đời, chàng khao khát được quỳ lạy dưới sư phụ, như thể trẻ ngã đau được vùi đầu vào lòng từ mẫu. Khát ngưỡng được ôm chân đức Phật để cơn bình yên trào lên vì được tha thứ đang an ủi tâm chàng. Nhưng con đường chàng đi không còn quay nổi về quá khứ.
Chàng chỉ có thể bước tiếp, về phía trước, lao mình chạy tìm thanh tịnh trong những tiếng mõ chuông.
Với một chút bi oán, chàng quyết bỏ lại Tú Thanh và Bối Sàm lún ngập trong vũng lầy ái tình nhân thế. Với một chút cồn cào buốt dại, chàng thầm ước nguyện cho họ hạnh phúc. Rồi chàng thô bạo đẩy tất cả về phía bóng tối của lãng quên, nơi ánh sáng của kệ kinh luật luận cũng không được chàng cho phép soi rọi tới. Cứ để kỷ niệm mủn rữa âm thầm ở nơi tăm tối kia, bằng cách ấy chàng mong được giải thoát.
Năm tháng trôi dạt vô phương theo những áng mây trời, thời gian cuốn phăng kỷ niệm về vùng quá khứ. Chú tăng Dật Khiên ngày xưa chẳng bao chốc đã trở thành một Hòa Thượng đức cao. Chàng trụ trị một ngôi chùa lớn có những ngọn tháp chín tầng khảm đá quý, do đích thân quan tể tướng dựng lên để cúng dường thầy. Những ngọn tháp, chót vót quá mà lại không biết nói, chỉ câm lặng viết mối tình cuồng nhiệt của con gái quan tể tướng lên mảnh da trời, những đường nét vô hình thở than, ai oán.
Dật Khiên không biết, không nghe, không đọc thấy lửa si nhiệt trong đôi mắt dài của người con gái đẹp, cứ miết đắm ngắm chàng. Thậm chí chàng chưa từng nhìn vào gương mặt tuyệt bích lấy một lần, trong hàng trăm lần nàng tới dự phần nghe pháp, hay tham vấn riêng với chàng, giữa khung cảnh thơ mộng tĩnh lặng của ngôi chùa uy nghiêm trên đỉnh ngọn núi thiêng.
Nên nỗi, thế giới tĩnh lặng chỉ của riêng Dật Khiên khiến tiểu thư phát điên. Vừa kích thích tò mò, vừa khiêu khích ghen tức, nàng quyết phải có được thể xác chàng, từ ấy mở đường xâm nhập và chiếm hữu tất cả thế giới lặng lẽ bí ẩn của nội tâm chàng, khiến nó suy tàn, làm nó tan biến, để nàng xây trong ấy thành quách của riêng mình, mà ở đó nàng là chúa tể.
Những ước mơ cuồng rồ đầy ắp trong tâm trí tiểu thư, bủa vây giam nhốt nàng, thôi thúc khiển sai nàng hành động. Thế mà sự uy nghi, đĩnh đạc của Dật Khiên khiến mọi mưu đồ quyến rũ, bức bách của nàng nghiêng ngả, vỡ nát. Bị cự tuyệt, cơn phẫn nộ đầy vô vọng của tiểu thư xộc đến như bão giông. Trong âm mưu đen tối liều lĩnh cuối cùng của nàng, Dật Khiên sẽ bị vu oan là phiến loạn, rồi trong lúc nguy kịch, nàng sẽ cứu sống mạng chàng, để chàng phải mang món nợ ân tình hệ trọng ấy suốt cuộc đời, tựa dấu vết xích xiềng trên cổ tay một nô lệ.
Chỉ là, dòng chảy tự nhiên luôn làm hỏng những sắp đặt và phụ rẫy ước vọng của loài người. Dật Khiên đã trốn thoát được khỏi ngôi chùa đang bị vây hãm. Quân lính đuổi sát gót mà không sao bắt được bóng ảnh chàng. Nhưng Bối Sàm lại là người trông thấy Dật Khiên luẩn khuất sau những tán cây của khu rừng rậm, còn Tú Thanh là người dùng thân thể đỡ lấy mũi tên đang lao về phía hai người đàn ông mới tay bắt mặt mừng. Trong lúc cấp cập, Bối Sàm cạo tóc mặc áo tăng, đánh lạc hướng quân truy lùng, để Dật Khiên cõng Tú Thanh chạy theo một con đường âm u khác. Họ lại hội ngộ nhau, rồi lại chia tay nhau, trong hoàn cảnh nguy ngập bức bách ấy.
Chẳng bao lâu, ở phía hạ nguồn của một dòng suối trong, người ta thấy thân xác đầy thương tích của một tăng nhân với khuôn mặt rạch nát làm cho biến dạng. Sư Dật Khiên biệt tăm. Người ta loan tin, kẻ phản nghịch đã chết. Cơn cớ nghiệt ngã chưa vì thế mà đủ đến hồi kết cục. Một sớm nọ, nàng tiểu thư tình si tuyệt vọng, được tìm thấy, như một cái xác treo cổ tự sát trong khuê phòng, sau chuỗi ngày giam mình vật vã khốn thương.
Nhiều năm đã qua, thiên hạ đồn nhau, trên núi Mắt Cáo có một tiên nhân tu hành đắc đạo, sống trong hốc núi, phiêu bồng tiêu dao. Cũng có người bảo đó là một cô hồn oan khiên, hàng đêm ngồi bên bờ suối thê thống khóc than. Nhiều năm sau nữa, có toán thợ săn đi lạc vào một hang núi. Nơi hoang vu ấy, cheo leo trên tấm đá phẳng có một bộ xương, khỏng kheo trong chiếc áo tơi vải đã nát mục. Người ấy đã chết, trong tư thế thiền, với đôi bàn tay còn nắm quá chặt một mũi tên hoen rỉ.
---
CC,
04, 2014
MỘNG CHUNG NHƯ THỊ
Giấc mộng Như Vậy
Ngàn năm gió cát xói mòn,
Bích họa trên vách nét son chưa mờ,
Ngoài thành cổ tháp chơ vơ,
Nỗi niềm chôn chặt, nương nhờ pháp duyên
Nhọc lòng lý giải căn nguyên,
Định thiền khôn tránh truân chuyên kiếp người,
Khen chê, bọt nước mà thôi,
Một mình lầm lũi giữa thời loạn ly
Vô thường, linh ứng bút ghi,
Đèn hoa bừng sáng, tức thì tắt ngay,
Hợp tan như khói như mây,
Trùng phùng sương điện, đổi thay muôn vàn
Khâu Từ cho đến Trường An,
Chùa xưa nương náu trăm ngàn chúng sinh,
Niết Bàn phát nguyện ứng linh,
Khuyết - tròn, vốn lẽ thường tình từ xưa
Thời trẻ rong ruổi gió mưa,
Đón vầng dương mọc, tiễn đưa chiều tà
Tuổi già thấu tỏ sâu xa,
Nhân gian năm tháng hóa là giấc mơ...
làm sao
chẳng phụ Như Lai
chẳng phụ người
...
CC
chỉnh thơ lược dịch
Tạm biệt 17.o2.2o15
Sáu năm sau khi chấm bút viết Giấc Mộng Hoa, bắt gặp bất phụ Như Lai, bất phụ khanh - Cưu Ma La Thập trong nghiệp tưởng của Trương Xuân Di.
Bất chợt, động chuyện xưa, lần tay giở lại mộng năm trước.
Chỉ là chuyện đã viết hồi sáu năm...
thôi ư...?
Nay rắp lòng đem mộng sáu năm kia ra xếp lại... Chỉ bởi...
Chẳng phụ Như Lai, chẳng phụ nàng.
CC
Tạm biệt 11.05.2014
19.
Đôi mắt lá cây, chảy tan thành dung dịch,
đổi màu bóng sáng, nổi bờ sóng lao xao.
Trầm Kha, cậu đã tìm tới mình, nói: Này, em có biết gì không, từ ban công em, nhìn ra chỗ kia, cái cửa sổ nhỏ đó, bếp của tôi đấy.
Ồ, Trầm Kha, mình vỡ òa, khi chúng mình trở thành hàng xóm.
Hàng xóm, Trầm Kha, có nghĩa là biết ném cái nhìn rầu rĩ ra hư không, im lặng, đủ để lắng nghe cậu ủ ê hoài, về ước mộng hái dừa, sinh ra cả đống những đứa con, cùng cô gái mỏng mảnh như sứ Trung Hoa ở tận Việt Nam, vẫn thi thoảng gửi cho cậu đôi dòng cô đơn và tuyệt vọng. Thế là, cậu lại mải miết day dứt phiền lòng: Cũng như anh khiếp hãi tình yêu, cô ấy sợ việc yêu anh, giống như sợ đằng sau hạnh phúc là mỗi nỗi bất hạnh. Lần chần lẩn trốn, né tránh tình yêu hoài, nhưng lại không thể làm bạn bè trong sáng của nhau. Thế là mãi đứng giữa đôi đường, không cách gì chấp nhận chọn ra một phương hướng.
Hàng xóm, Trầm Kha, có nghĩa là biết an ủi hay chọc cho cậu cười, mỗi khi cậu tức điên: Cô ấy khiến anh phát rồ! Thật khó để liên lạc với nhau! Chẳng bao giờ rõ ràng! Lúc nào cũng rụt rè, lần chần và đè nén!
Hàng xóm, Trầm Kha, có nghĩa là biết thông cảm khi cậu chia sẻ những câu chuyện gia đình, vốn được kết nối khăng khít bởi những phần tử dịu dàng, mà thiếu một sẽ trở nên lỏng lẻo rời rạc. Người mẹ thảng thốt, ông bố giản đơn, cậu em yếu đuối. Căn nhà tiện nghi sạch bóng tựa viện bảo tàng, cỏ trong vườn luôn được cắt tỉa chỉnh tề gọn ghẽ, bể bơi lúc nào cũng sạch sẽ trong xanh, những bông hoa cần mọc đúng y chỗ và vừa đủ tầm. Chỉ có thể xa nhau mấy trăm cây số và trong vòng vài tuần. Thứ nào cũng muốn. Ai cũng sợ làm phiền lòng. Luôn rụt rè đắn đo, không bao giờ có thể chọn lựa được, cuối cùng làm tổn thương cả thảy.
Hàng xóm, Trầm Kha, có nghĩa là biết đợi cậu trở về sau những chuyến đi thật xa, tới tận đất nước của mình – nơi kể từ khi bỏ đi mình không hề quay lại, rồi kể: Cô ấy và anh giờ như là anh em. Rồi anh gặp một người con gái khác. Nàng ấy cũng người Việt Nam, nhưng nàng ấy là sinh viên ở đây, nàng ấy...
Hàng xóm, Trầm Kha, có nghĩa là biết mời bạn gái mới của cậu tới chơi. Hàng xóm, Trầm Kha, nghĩa là biết tới thăm chỗ cậu ở chung với nàng ấy.
Hàng xóm, Trầm Kha, nghĩa là biết chua chát cùng cậu, khi người yêu này sớm lại đề nghị cậu trở thành một người anh.
Hàng xóm, Trầm Kha, nghĩa là biết buồn cùng cậu khi nàng ấy chọn người con trai khác cậu làm chồng.
Hàng xóm, nghĩa là biết mỉm cười tán dương những khối tình bỏng cháy phân vân này, mà cậu dành cho những ngài non chấp chứa duyên quá khứ - những cô gái dễ tổn thương cần cậu bao bọc, chở che.
Hàng xóm, nghĩa là chấp nhận rằng rằng, cậu chẳng biết chút gì về mình cả.
Hàng xóm, nghĩa là hiểu ra, mình chẳng bao giờ là ngài non. Đối với cậu, mình là một loài cây có gai giản đơn, ai chạm tới sẽ bị đau nhức nhối.
---
CC,
04/2014
20.
Tôi không trả lời nổi câu hỏi của em : có bao giờ tôi mong muốn xóa sạch đi tất cả ký ức về một ai đó?
Em thì, em muốn cọ rửa cả trí nhớ lẫn những giấc chiêm bao, khi mà mê mị và muộn sầu đã dẹp lép thành một thoáng bóng mờ, khi mà tâm duyên sinh vẫn hướng về phía luyến thương mà xuyến xao từng làn sóng.
Còn tôi ?
Mười năm, cuối cùng tôi đã hiểu được ra, cuộc sống dễ dàng luôn phải trả bằng cái giá chẳng dễ chịu chút nào. Có những thương tổn hoàn toàn cá nhân, khó ai có thể vuốt ve, vì nằm ngoài thể xác. Tôi hiểu được, cái chết lần mòn của một đời sống nội tâm, bị xiết nghẹt từ từ bởi sợi dây thòng cuốn cuồng theo đám thú vui vật chất. Cũng là một lối sống, đung đưa, nhún nhảy, mà vẫn cứ mải miết tìm kiếm hòa hợp và tự do. Nếu rất muốn thoát ra, luôn có những lựa chọn khác. Cái gì cũng cần phải đánh đổi.
Mười năm, tôi vẫn tiếp tục lao theo những cuộc hẹn hò đã được lên kế hoạch từ rất lâu. Lúc nào cũng bận rộn trốn vào những mối giao lưu. Cứ dồn dập như sóng, lớp này trồi lớp khác, biển bồn chồn sợ hãi của riêng tôi. Tôi sợ, cuộc sống trễ nải sẽ kéo mình tới cái chết nhanh hơn.
Vì sao người ta sống để rồi đều sẽ chết? Nếu cái chết, bất chấp hạnh phúc lẫn khổ đau, là một chấm dứt đen ngòm cho tất cả mọi nỗ lực, thì người ta nên phải sống như thế nào đây?
Rồi, mười năm trôi, tôi cũng dịch tiếp một ván cờ cũ thếch, thực, hoặc vẫn còn điên đảo trong sóng mơ mộng nào. Lâng lâng như kẻ trải qua nhiều cuộc đời. Mơ màng tựa người quá nhập tâm vào chuỗi những bộ phim dài tập, tình tiết lâm li, mà lại đột ngột bị trả về thế giới thực tại.
Tất cả quen thuộc ngoài kia, với tôi, bỗng trở nên im lìm, trong một sự thật xa lạ. Tôi bỏ rơi mình, tất cả những tôi, của ngày xưa lẫn của hôm nay, lạc lõng ở một nơi chốn hoang vu.
Nhiều giờ, chỉ có mỗi một việc : ngồi thừ người trước hồi ức và thả cho tia nhìn trôi nổi làm đầy ngập hư hao. Lần đầu tiên, sau một thời gian rất lâu quý trọng từng giây phút một, tôi không biết phải làm gì, đang ở đâu, với chiều không gian nào, ngoài việc gặm nhấm trống không…
Và gần như là tuyệt vọng.
Cảm giác hụt hẫng nghi hoặc của một người, hôm trước còn đang say mê ấm nồng, sau một đêm dài khóc ngất, tỉnh dậy vẫn không thể tin nổi ra mình đã bị phụ bạc.
Bước hay dừng, đi đường nào, vẫn chỉ là chuyện của riêng mình, không can hệ tới ai, không ai có thể giúp đỡ.
---
CC,
04/2014
21.
Sân giận nổi sôi như lửa. Ái dục tràn đầy như nước.
Người ta chết vì lửa thì ít, mà chết vì nước thì nhiều.
Là như vậy, Trầm Kha người ta có thể tưởng là mình yêu, một người mình tin đã từng là ai đó trong cơn mộng. Chuyện chiêm bao cứ nối tiếp hoài mãi, của mình, chúng chao động quá. Mình cứ bơi mãi, bươi diễn bi lụy, trong ấy, chỉ cố đợi một người, có lẽ là vị tăng, thầy ấy của sáu năm trước, kéo mình ra.
Với một chút tĩnh tâm, đầy thương cảm, từ khi ấy, mình đã bắt đầu ngẫm ngợi về trạng thái tâm lý lạ lùng mà tâm đã vướng phải thế này.
Đã qua rồi, hẳn nhiên, thời yêu đương mù quáng, ngây ngô và vụng dại. Mình ấy, Trầm Kha, vẫn luôn ngạo mạn nhạo đùa thói cân đạo đức bằng tiết trinh, mà sự từng trải xót thương là lớp áo giáp bảo vệ kiên cố nhất, không lẽ gì khuôn mẫu đạo đức cổ hỉ lại làm mình đau khổ thế.
Trầm Kha, những mộng ái tình với người ta, cảnh khỏa thân trần trụi trước người khác, việc thủ dâm lúc mường tượng những điều khó dám nói ra, trong thế giới mộng của phân tâm, được coi là những biến thể thường tình cơ bản của dục năng bị cấm đoán. Mình có chút hiểu biết loại khoa học về những điều cấm kị này. Chúng chẳng thể khiến mình tự phán xét. Thế thì, vì nỗi nào mà buồn tủi và hổ thẹn cứ trào lên mãi trong mình, lúc ấy?
Dùng lý lẽ gì để lý giải cảm giác của sáu năm trước, thứ quặn cảm ngập ngụa trong tội lỗi, hệt như nỗi hổ nhục của một phụ nữ trung trinh thực sự phản bội tiết hạnh, ứa ức đầy trào hoài, mỗi khi mình nhìn vào mặt gương, mà lại chỉ thấy những ảo ảnh đêm ấy?
Đêm ấy, là đêm cuối cùng mình quan hệ với đàn ông. Đàn ông đêm ấy, là chồng mình, Trầm Kha, chuyện nào bất thường gì, phải không? Nhưng, đêm ấy, mình nhìn thấy, không phải là đôi mắt xanh rất nhạt, Trầm Kha.
Mình đã thấy, mình lại khoác thân xác đàn bà xa lạ lắm, đang ôm ghì người đàn ông được tạc bằng âm thanh, một người không thể va chạm, một ảo hình trần trụi hoàn toàn hiển lộ đầy đủ những khát vọng mộc mạc chân thành nhất. Gương mặt không sao trông thấy được, những đường nét thanh quý chìm hẳn trong một thứ ánh sáng dị thường. Đôi bàn tay thanh âm phát ra tiếng nhạc quyến rũ không cưỡng chế nổi, từng nốt đĩnh đạc, điềm tĩnh, âu yếm, vỗ về, mơn trớn ngấm vào da thịt trần tục, làm rung lên những sợi mê mẩn nằm im lìm sâu thẳm nơi thân thể. Mình quấn chặt lấy ảo ảnh tâm thức ấy, trong một thứ khao khát cực độ, cùng lúc cảm thấy nghẹt thở vì một nỗi đau đớn tinh thần không sao chịu đựng nổi.
Nỗi tuyệt vọng khi mất mát một thứ diệu huyền không thể chiếm hữu được, này đây, đè lên mình tựa một con thác dữ.
Đúng vậy, Trầm Kha, đêm ấy, như là mình quan hệ với vị tu sĩ mà mình quen biết trên mạng này, nhục vọng đủ đầy, rồi người ấy lại biến thành ai khác, không rõ là đàn bà hay đàn ông, tăng hay tục, mà tựa như là tất cả thế nhân. Đó là lúc cơn bão tố trần ai của mình bùng nổ sau một tia chớp chói lòa. Trong cơn rúng động phi thường, những co bóp của vùng thầm kín đẩy mạnh bầu năng lượng khổng lồ lan ra toàn thân, tới tận đỉnh đầu và mười ngón chân dần dại. Mọi nơi nguồn sóng dục ào ạt lao qua, tất cả đều tê liệt như bị nhão chảy thành một cái gì đó hoàn toàn khác trước.
Biến tấu nào đó trong mình đã hoảng hốt kêu lên một tiếng thất kinh, rồi phá lên cười ngặt nghẽo. Tiếng cười lanh lảnh vô thanh lôi mình ra khỏi mộng mị và ném trả mình về căn phòng nhập nhem đèn. Trầm Kha, mình đã thấy một ảo hình không thể có dục vọng, một hư ảo giữa thực và mơ, một người không thể xuyên qua, một người xưa cũ đã quay trở lại, quái đản và vi tế đến mức bàng hoàng.
Bị choáng váng trong cảm giác nghiệt ngã của ham muốn nhục tục với bản năng đắm đuối và trí lực tê liệt, đêm ấy, một tiếng thanh la mảnh váng cứa nghẹt tâm mình, dòng dục vọng chảy ngược vào trong, tiềm ẩn vô thức, thế là hoài thai.
Thời điểm ấy, Trầm Kha, mình đã tưởng rằng, mình đã hồ như: là mình đã vượt qua được dòng chảy dục, tâm như thể mặt nước vắt trong không gì khơi sóng đục. Nhưng đêm ấy, ảo tưởng này vỡ vụn, trước một đòn công phá quá đỗi giản đơn.
Làm gì có những chiếc khăn len đan tay, những chiếc mùi soa đẫm nước mắt, những chiếc vòng bạc hẹn thề, những bài thơ đầy đớn đau, hay những tính mạng được đem ra để tráo cược tình cảm... Không có mảy may nào những tình tiết lâm li thuộc về những mối tình trái ngang thường thấy. Chỉ có một vị tăng quen qua mạng, biết tiếng không thấy mặt, hàng ngày nghe nhau mãi như thể đã quen biết từ lâu. Như thể đã quen biết từ lâu, đủ để vương thương mến?
Cũng có một vài giấc mơ. Những giấc chiêm bao lạ lùng và sự tham dự của chúng vào hiện tại khiến cho mọi chuyện thêm phần mông lung huyễn ảo. Nhưng kỳ thực, chiêm bao, chúng chẳng mang mấy nhiều giá trị minh chứng thực tại nào.
Chỉ có vậy, mà một khối rã rượi nặng nề, mình đã chực nhận ra mình đang mang vác, là gì? Trái tim mình, sau đêm ấy, như bị một sức mạnh hút dứt ra khỏi những mạch máu, nhức nhối từng hồi. Giữa bụng mình, có một cục cứng vón lại, không thể trông thấy, không thể chạm sờ, không thể vuốt ve, không thể moi móc, nhưng lại gây khổ sở khôn tả. Thân thể này tựa đang chứa một sình bệnh sắp hoại tử từ trong. Mọi suy nghĩ mông lung và trống rỗng hút cạn nguồn sinh khí. Một bức tường vô hình trong suốt nhốt chặt mình lại, ngăn cách mình với thế giới quen thuộc chung quanh. Mình nhìn nghe tất cả, nhưng lại như đang trôi dạt giữa một trường nhạt nhòa, hư ảo. Giả dối thôi. Những giấc chiêm bao còn rõ ràng, rành rẽ hơn thực tại.
Bởi sao? Từ đâu? Nơi nào đầu mối của hiện trạng nội tâm bi thương khó lý giải, nỗi khổ đau của một kẻ vừa trải qua một sự tiễn biệt đầy bi thống với mối quan hệ truyền kỳ nhẽ ra phải bền rễ dài lâu trong tốt đẹp?
Trầm Kha, là cái gì đã dồn ép lại, tựa như từ muôn ngàn năm trước, thêm một cú thúc liền phá vỡ bờ đê mà trở thành cơn nước lớn?
Mình đã buông những tiếng thở dài, Trầm Kha, não nề như một người già nua đang lún tâm vào hoài niệm, rồi nhận ra đã không còn đủ thời gian lau dọn khối nuối tiếc muộn mằn.
Vậy đấy, sáu năm rồi, Trầm Kha. Đứa trẻ hoài thai đêm ấy đã sinh ra, đang lớn. Mọi khao khát thân thể sau đêm ấy chợt đã lại nguội ngắt như tờ. Đừng nói với mình về chuyện gối chăn. Mình ghê tởm sự đụng chạm nhục dục. Đó phải chăng là căn bệnh lãnh cảm? Hay chỉ là mọi ham muốn dục lạc đã bị bỏ rơi lại, rất vợi xa; hay vẫn là trong tiền ý thức, đằng sau, dồn nén lại, những điều chưa nhận diện rõ nổi ra?
--
CC,
04/2014
22.
Hôm mợ bắt vạ nhà chùa là một ngày trời đất oi ả, lồng lộng quay cuồng trước một cơn giông. Không biết mợ nghe ai tỉa tót, mà biết được cái bụng khốn nạn này là của sư chùa ấy.
Tôi khóc ngất, quỳ lạy dập đầu trước cậu van lơn, mà mợ cứ thế lôi xốc tôi đi. Tôi cố bám chân chùn trượt trên đất, tay bấu vào song cửa gỗ, móng sứt rớm máu, mười đầu ngón tay nát bươm.
Cậu tôi quay lưng vào bàn thờ gia tổ, chăm chăm nhìn vào đôi câu liễn vàng son, miệng mím như sợi chỉ, không nói một lời, cũng không cả thở dài, phăng phắc như tượng. Cái đau nhục nhã không lời ấy ngấm vào tới xương tủy, ướp giá băng biến cậu thành gỗ đá mất rồi.
Trước Tam Bảo, mợ chống nạnh châm chỉa, nói những gì tôi không còn nghe được nữa. Tất cả đều váng vất như tiếng hàng trăm khối chuông va chạm vào nhau. Thứ âm thanh hỗn hợp kinh hoàng.
Sư trụ trì không nói một lời, nhẫn chịu trận đòn miệng độc địa. Đệ tử quỳ thành hai hàng, cả thảy đều chắp tay, cúi đầu, im phăng phắc, một vạt áo nâu cũng không động mảy may. Mợ bảo tôi chỉ điểm. Người tôi run bần bật, lệ làm mắt tôi lòa, tôi lắc đầu ngoầy ngoậy.
Tôi biết Chính từ hồi anh mới đặt chân vào trường Luật, khi ấy tôi mới mười bốn tuổi. Đến năm nhì thời anh bỏ vào chùa xuất gia. Người ta bảo anh chán chường nhân tình thế sự. Chỉ có mình tôi biết là anh ẩn mình nuôi chí lớn.
Đêm tôi báo Chính hay tôi đã mang giọt máu của anh. Chính tái mặt, người lạnh như băng mà bàn tay anh mướt mát mồ hôi. Chiến sĩ cách mạng xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản ấy nói với tôi biết bao nhiêu là điều, về tình yêu, về sự hứa hẹn, về nỗi nhục tôi đòi, về nỗi đau mất nước, về thân phận lầm than, về hoài bão cao cả, về những cuộc cách mạng, về sự hi sinh và những điều bí mật... Thời anh quỳ dưới chân tôi, hôn lên hai bàn tay tôi, gục đầu vào bụng tôi. Chính cầu xin tôi và con hãy nghĩ tới quốc gia, nghĩ tới dân tộc.
Cả vận mệnh đất nước cớ sao lại đặt lên vai một người đàn bà lỡ làng ?
Mợ nắm tóc giúi đầu tôi mà đay : Sao mà cô dại dột thế hở cô! Cô đem gio trát trấu lên mặt cậu mợ mà cô không nhục hở cô! Đợi tới thời bị đem gọt gáy bôi vôi thời mày mới chịu tỉnh, hở con !
Sư trụ trì tiếng đanh như thép, kẻ lỗi không nhận thời cả thầy lẫn trò, sư huynh lẫn sư đệ đều phải gánh tội chung, mà trò làm quấy lỗi thầy nặng hơn cả. Sư quỳ trước chánh điện, vạch chiếc áo pháp, làn da ngoài tám mươi bọc lấy tấm lưng lỏng khỏng xương, Sư bảo anh bếp dùng thiết bản cứ thế mà nện mà quật thật lực vào.
Tôi bàng hoàng tột độ, trời đất cuồng quay mà ngã vật xuống đất. Trước khi ngất đi, chỉ kịp nghe một tiếng kêu lớn và bóng áo nâu trầm thẫm bi thương khoan dũng bước ra.
Thầy chịu đòn nặng lắm, thời bị đuổi khỏi chùa. Cậu mợ đưa Thầy về nhà chạy chữa. Lưng Thầy vần bấy, cả tháng phải nằm sấp. Tôi vào chăm mà tủi nhục, nước mắt cứ thế trào ra, lăn hàng dài bào mòn đôi bờ má, thời vẫn không dám nhìn thẳng vào con người thánh thiện khẽ khàng an ủi tôi :
- Nam mô A Di Đà Phật! Thí chủ đừng ngại ngùng. Chuyện nghiệp duyên ở đời khó lý giải lắm. Sư huynh sư đệ của tôi hẳn có nỗi khổ không thể giãi bày thời nhất định phải lặng im. Thí chủ cũng đừng vì thế mà tuyệt vọng, hãi hùng tới tâm tính thai nhi. Chuyện đâu thời cũng còn đó cả thôi.
Ban đầu Thầy nhất định giữ gìn giới hạnh, tâm tư trong sáng như pha lê, nhưng cậu mợ ép uổng tội nghiệp quá nên Thầy cưới tôi.
Ban đêm, Thầy nằm trên võng, nhường tôi ngủ giường. Khi tôi thức giấc, thời đã thấy Thầy tĩnh tâm niệm Phật. Lúc mắt tôi trĩu cay, thời Thầy vẫn còn chong đèn đọc Kinh. Hàng ngày, Thầy đẽo tượng Phật. Tượng nào cũng như được thổi hồn sống, cười rõ cười, từ bi rõ từ bi, nên dần dà, nhà nhà trong vùng đều tìm tới thỉnh tượng Phật, nghe chuyện nhân quả, học việc tu hành.
Con trai Chính chào đời, Thầy chăm như con mình, từ việc giặt tấm tã tới đổ đồ dơ. Trong nhà ngoài ngõ, Thầy chẳng từ một việc gì, miễn là có lợi cho người.
Cậu mợ ban đầu khinh khi, dần cũng bị cái nết hạnh uy đức của Thầy làm cho cảm mến.
Tóc Thầy mấy chốc đã chớm dài, mặc áo cụt, đội nón tơi, thời hiên hạ cũng đã bẵng quên những chuyện nhơ nhớp. Thứ năng lực hiền hậu, đoan trực tỏa ra từ Thầy, như hương, lan tới đâu cũng khiến người thương cảm. Còn nỗi oan khuất bất nhẫn kia, Thầy nhất định không một lời bộc bạch, tới chết vẫn giữ bí mật cho tôi và một sư huynh sư đệ nào đó Thầy cũng chưa từng muốn biết.
Cuộc sống cứ thế trôi đi, lặng lẽ, êm ả. Tôi kính Thầy, Thầy kính tôi, tình cảm trong sạch, dịu dàng, đằm thắm, tựa bông cúc tần với cơn gió thu, quấn quít thanh tao trong se lạnh.
Nhưng nỗi thảnh thơi chẳng giữ mãi trong lòng tay được, mà trò đời cứ đem bất hạnh ra lụy khổ cho người. Một lần đắm đò thời thủy thần cướp hai thân và con trai tôi về nước bạc. Cháu khi ấy vẫn chưa đầy ba tuổi. Tôi đột ngột mồ côi song thân, mồ côi chồng con. Đời khắc nghiệt vì chẳng còn gì. Nhưng Thầy đa đoan thêm một lần dang tay đùm bọc. Sớm tối dựa nhau tồn tại, an ủi, khỏa khuây, thế nào, oái oăm thành bén tiếng quen hơi.
Bên từ ái nhân hậu của Thầy, thời ai cũng phải nguôi ngoai sầu thảm.
----
CC,
04/2014
Ảnh: Munindra Rajbongshi
23.
Em kể, ngày mà Thầy và Chính tới trong mộng em, sáu năm trước, là ngày mà vị tăng sĩ trên mạng kia kể cho em nghe, một câu chuyện có thật.
Đó là chuyện thân xác một người đàn bà đầm mình trong vũng máu, mà chàng đã khóc ngất, rất lâu, bên thi thể lõa lồ ấy - hình ảnh và nỗi đau khổ giằng xé từ một giấc chiêm bao duy nhất, hàng đêm, của chàng, khiến nhà sư trẻ khởi vọng muốn quyên sinh. Cơn tuyệt vọng chống trả với ma chướng làm chàng kiệt sức.
Sau hai mươi mốt ngày nhập thất khẩn thiết sám hối, một điềm mơ cuối cùng cũng hiển lộ được ra. Vị thiện thần mách chàng về một thứ tiền nghiệp oan trái oái oăm, đã tới thời tìm chàng đòi trả dứt : nếu như ngày ấy tháng nọ, mà xuống núi, ắt nhiên chàng sẽ gặp người chủ nợ kia. Nghiệp báo xong xuôi, mới hòng tu hành được.
Sư phụ dạy chàng, nghiệp gặp duyên đến thời phải thọ quả, trốn tránh o ép chỉ càng làm ân oán cũ thêm rối rắm, éo le. Nên đúng ngày, tăng nhân nọ, lạy thầy, vái chùa, xuống núi, lòng cào cấu hoang mang. Hành trang đem theo chỉ có lòng từ bi, tâm lân mẫn, và một tiếng : Phật...
Câu chuyện bắt đầu như vậy, em chăm chú mường tượng, bám víu vào giọng tĩnh mặc, dịu trầm, mà vẽ ra.
Sư phụ già, vị tăng trẻ, những giấc chiêm bao dữ, vị hộ pháp, ngôi chùa nhỏ heo hắt, tịch liêu, tiếng mõ chuông đều đặn, uẩn buồn. Hoa lá, cỏ cây, mùi hương, màn sương nuốt chửng vạt áo người tu khi chàng bước xuống những bậc đá. Chàng gặp nàng. Chàng khước từ nàng. Nàng uất ôm mối tình tuyệt vọng, nhào vào giữa con lộ, hòng tự diệt nỗi nhục đau. Đôi tình nhân háo hức trên đường sắm sửa đồ tân hôn, văng ra khỏi chiếc xe đang phi nhanh bị phanh gấp vì cô gái ấy, tai nạn bất ngờ đã cướp mất toàn bộ tương lai họ.
Vị tăng trẻ ngồi bên giường bệnh, cẩn trọng nắm lấy đôi bàn tay lạnh lẽo của người con gái yêu chàng, cố rót đầy dưỡng sinh vào đôi mắt oan khiên, đang dại đi vì thể chất đớn đau, tâm thần dằn vặt một niềm ân hận lớn nặng… Chàng nói : Chúng ta sẽ sống, hữu ích, cho cả những người xấu số cộng nghiệp với ta mà bỏ mạng. Đôi môi nhợt nhạt của cô gái nhoẻn nở.
Nàng sống, chàng hoàn tục, họ kết hôn và kết quả của mối lương duyên lạ lùng ấy là một cặp song sinh, một cậu con trai và một cô con gái. Chín năm sau, hai vợ chồng dẫn cặp song sinh lên núi. Cả bốn người nhà họ đều xuất gia.
Thế là, bất cứ thứ gì mà vọng tâm em biến hiện được cũng đều long lanh, bí ẩn, ngay cả vẻ trĩu nặng ai oán cũng thực thể, đến độ em tưởng mình đang nắm lấy một vật hữu hình, cảm thấy sức nặng của nỗi ám ảnh tựa một hòn đất, đến nỗi có thể bóp nặn được hình dáng của những xúc động oan khiên. Tất cả đều trở thành một thước phim sống động, trọng cõi tưởng của em, bởi vì một trong hai đứa trẻ song sinh kia, chính là vị tăng, dầu không biết mặt, mà em tưởng mình đã động lòng cảm mến.
Nhưng, đó cũng là lần cuối cùng, em nghe tiếng của vị tăng. Người đàn ông ấy đột ngột biến mất, đi biệt, khỏi mạng, khỏi cuộc đời em, như một làn khói thoảng.
---
CC,
04/2014
24.
Người ta chỉ có thể thảng trượt qua nhau,
rồi để lại trong nhau vài vết dấu...
Trầm Kha, mình vẫn tự hỏi, thầy ấy biến mất, có phải tại thình lình đã không còn thấy mình ở đó nữa hay không? Trầm Kha, mình đã chẳng kịp nói một tiếng tạ từ. Trong thời thai nghén, bất ngờ, mình chỉ có thể nằm im trên giường, chẳng hề nhúc nhích nổi dầu chỉ nửa phân.
Không dung chứa được bất cứ loại thực phẩm nào, đầu chúi trong bao ni lông, thậm chí không đủ sức nâng nổi khối cơ óc gân xương của mình lên thành chậu, mình nôn thốc tháo, cào hắt ra tất cả những gì chất chịt ở bên trong. Như có bà mụ phương phi đang cầm một cây chổi tre cứng quèo kì cọ, gột rửa gay gắt thân thể, mình mửa ra cả hư không. Đầu óc quay cuồng, mỗi cử động nhỏ cũng gây chấn động toàn thân hệt một trận thiên tai. Chân tay mình bồn chồn tựa có hàng trăm ngàn mũi kim đâm chích và máu trong thân mình như bắt đầu dòng chảy ngược. Những cơn xây xẩm nuốt trọn lấy mình.
Trong tình cảnh ấy, mỗi khi thoảng nghĩ tới những người thân thương gần gũi nhất, tới người đàn ông mình không thể chạm vào, hay tới những kẻ đã khiến mình vui thương hay đau khổ, Trầm Kha, mình choáng váng nhận ra chẳng có lấy một ai ở đời có thể đồng cảm, có thể giúp đỡ, có thẻ san sớt chuyến du hành quằn quại, vật vã này. Mình chẳng còn biết nương cậy ai, mà thốt nhiên chỉ khát ngóng giây phút tất thảy mọi sự ở đời chấm dứt tới. Thế là, Trầm Kha, một cơn sợ hãi kinh hoàng dội quanh trong mình, làm toàn thân thể co dại và cơn buồn nôn lại dềnh lên thốc tháo.
Nếu mình chết trước khi hiểu thế nào là giải thoát, thì sao ?
Mình bàng hoàng nhận thức ra lời nguyền vẫn rình rập chờ đợi nuốt chửng lấy mình. Chính mình đây, Trầm Kha, mà không phải một ai khác, đang sống. Chính mình đây, Trầm Kha, mà không phải một ai khác, chịu khổ bệnh. Chính mình đây, Trầm Kha, mà không phải một ai khác, sẽ chết. Và chỉ khi ấy, Trầm Kha, sống chết mới bỗng chốc trở thành một nhà ngục tối đen, bơ vơ, lạc lõng, giữa vĩnh hằng triền miên nỗi khiếp khổ.
Thế rồi, sau đợt choáng váng kinh hoàng tưởng như sắp diệt vong, cơn nghén không còn hành hạ mình thêm nữa, đột ngột dịu dàng biến mất, như một cơn giông. Và thầy ấy, thầy ấy cũng không bao giờ còn ở đấy nữa.
Trầm Kha, mỗi khi mường tượng em bé được hoài thai từ cái đêm lạ lùng kia, mình chẳng bao giờ thấy một thai nhi. Chỉ thấy một đôi mắt trong trẻo, sáng lấp lánh, tinh anh, vạch những đường nhìn hài hước, đĩnh đạc. Sống mũi cao cao, thẳng thớm, vừa phải, chắc chắn. Đôi môi đầy đặn hình cánh cung hơi cong, lúc nào cũng như tủm tỉm lên dây một nụ cười tiếu tịnh. Khuôn mặt có góc cạnh rõ ràng, vững chãi. Đầu tròn, tai lớn, cổ cao. Vầng trán vuông vắn, thân hình dỏng dài, cân đối, không mập, chẳng ốm. Trầm Kha, sao mình chỉ thấy mãi khuôn hình người đàn ông mà mình thường mơ mộng thời còn thiếu niên?
Trầm Kha, một lần, một lần duy nhất, thầy ấy kể về giấc mộng Quán Thế Âm của riêng thầy, trong lần nhập thất ấy: Bồ Tát cầm trên tay một thạch ngọc xanh biếc hình hài nhi, trao cho thầy thánh thai ấy, rồi ngài không nói chi hết cả.
Trầm Kha, mình biết, sớm muộn gì, tất cả sự thể đều sẽ trở thành là tự gây tổn thương, rồi tự mình đau những nỗi đau trong cõi tưởng. Và những vấn nghi lại trồi lên, cạn lòng mà vẫn nguyên cơn tròng trành cũ. Người ta cần gì nhất ở đời? Trầm Kha. Một sự nghiệp? Một mái nhà? Một gia đình? Một tri kỉ? Một đạo đường?
Hay một sự giải thoát?
---
CC,
04/2014
25.
Khi tôi lại có tin vui thời Chính ghé chơi.
Chính mặc áo nâu, đầu bóng trơn, cầm chiếc cặp da đen, bảo đi chữa cho người bệnh ở xa, tiện thể ghé qua thăm sư huynh. Tôi nghe tiếng Chính sang sảng, liền nhận ra ngay, mà chẳng cảm thấy một mảy may rung động.
Từng ấy năm bặt tin, Chính gầy săn, già dặn, lụ khụ, trầm tư, ánh mắt lúc nào cũng đầy cảnh giác, kẻ một đường xa xăm, hoang vắng và tiêu điều như thể nhìn đâu cũng thấy toàn bi đát.
Hình như vẻ đẹp của người chiến sĩ ấy là cứ phải luôn rối bời, lãng đãng, khôn dò, phải luôn gây cảm giác thiếu an toàn như vậy.
Tôi vào tới cửa. Chính đứng ngây giữa nhà, bàng hoàng, sững sờ nhìn dính tôi. Tìm dịp gặp riêng, Chính thầm thì, không ngờ tôi đẹp đến thế. Nét đẹp lạ lùng, như thể tất cả nỗi hoang liêu đều rót đầy trong mắt, khóe môi rõ hiền mà làn da thời như được dệt bằng hàng vạn sợi mong manh. Chính lại mang mang bảo, tôi với sư huynh, làm cách gì mà như được tạc cùng một chất liệu, màu da trong suốt ấy.
Lẽ nào thân thế chúng tôi vì anh mà thảm thương, thời thân thể chúng tôi cũng phải vì anh mà tự giằn vặt, còn tâm tư thì nhất nhất phải vì anh mà bi đát? Tôi cảm thấy một nỗi lo lắng mơ hồ. Bị ám ảnh bởi linh cảm đáng sợ. Dường như Chính thất vọng và ganh ghét điều gì, tới nỗi phải phun qua ánh mắt xa mờ nỗi hãi sợ bị khinh bỉ, dấu hiệu của những thứ tình cảm cưỡng bức hay thỏa thuận.
Chẳng nhập tâm nhưng tôi đã đắn đo. Vì sao anh chẳng chút gì vui mừng cho chúng tôi? Anh vẫn đang có tất những gì mà anh dự tính, vẫn như thể anh luôn xơ xác, tiêu điều trong một thứ thiếu vắng mong manh.
Chính nhìn quanh nhà, thời hỏi : Nhóc tôi đi đâu, là gái hay trai ? Tôi cay đắng đáp : Theo hai thân tôi thác rồi.
Chính không nói một lời nào nữa, cũng không thể hiện một mảy may tình cảm gì, tuyệt đối là giá băng.
Chính làm tôi sợ.
Hai ngày sau Chính tạ từ, trời còn đặc sương, bóng khuất vào mù mờ.
Nửa tháng trôi qua, Chính ghé lại, ngủ một đêm. Thời sáng sớm hôm sau lại ra đi, biến mất một cách kỳ quặc, hệt như một oan hồn tiêu tán lúc bình minh.
Thầy bị bắt giam một tuần sau đó. Đào được trong vườn nhà một gói nhỏ, không biết chứa gì. Tôi cũng bị giải lên bót, bị ép uống nước cho căng rồi bị đạp thốc vào bụng. Nhưng vì tôi là thai phụ non bốn năm tháng, nên chỉ bị hành hạ qua loa rồi tha về. Phần Thầy bị giam kín để điều tra.
Người ta bảo tôi phải gõ cửa này rồi lụy cửa kia. Người ta lại bảo, thời buổi nhiễu nhương quái đản này, chưa biết thuộc đảng phái nào, nhưng hễ rơi vào cùm gông là chắc chắn có nghi ngờ tham gia phản động chống thực dân đấy. Đã mang thân thuộc địa lại còn là dân khố đen, đã quê mùa cục mịch lại còn nghèo mạt rệp, thế thì kêu Trời cũng chẳng cứu nổi mạng kia.
Chạy vạy mãi tôi cũng vào được khám thăm Thầy.
Thầy không đi nổi nữa, đầu sưng như quả bóng da, đôi mắt chỉ còn hai bọng máu. Không cầm nổi cơn thống khổ cùng cực, tôi thời suýt ngất. Thế mà Thầy, Thầy vẫn điềm nhiên, dịu dàng an ủi tôi:
Nam mô A Di Đà Phật. Đây là túc nghiệp của tôi, mợ đừng bi lụy, cũng không phải cầu cạnh phiền toái gì ai. Khổ thân cho mợ! Sớm tôi sẽ được giải thoát thôi. Mợ biết, tôi biết, tâm Phật biết là tôi vô tội. Dù thân này khoác cà sa hay lấm bụi đời, tâm này vẫn sáng sạch không mảy may vấn vương thế sự.
Thời Thầy lại ôn tồn bảo :
Có nợ thì trả. Trả mà như không trả. Tâm chẳng mắc mớ điều gì. Mợ cũng nên như vậy. Dù nghiệp chướng báo bổ thế nào, cũng cứ an nhiên mà tu niệm, đừng oán hận ai. Xong báo thân này, ắt sẽ được an lạc. Tôi chỉ thương cho thai nhi. Nhưng mỗi người mỗi phận, đành trông vào mợ. Từ rày trở đi, mợ tự bảo trọng!
Tôi nghe mấy lời ấy, thời biết đây là lần cuối, tâm tư tiêu tán, uất hận trào đầy. Trở về, tôi như người điên dại, ngơ ngẩn, thẫn thờ. Cả đêm hôm ấy, tôi nằm chống tay, mắt chòng chọc nhìn lên trần nhà. Sớm hôm sau, quây quả rẽ sương mà đi.
Tôi gặp Chính ngoài bìa rừng. Hôm ấy trăng vằng vặc sáng. Mặt y trắng như bột, da bám chặt vào xương. Thấy rõ được cả những đường gân. Máu trong ấy đặc thê thảm lắm, quánh tới độ dường như không chảy nữa.
Tôi đã lao vào y mà đấm đá, mà kêu gào. Con người độc ác, đê tiện, phản trắc, bất nhân, bất nghĩa ấy. Tôi căm thù y. Loài xài lang mủn thối.
Mặc cho tôi xối xả cơn cuồng nộ, cho tới khi mệt lả đi, con rắn độc đứng im lìm rung cái đuôi chuông, giống hệt ngày nghiệt ngã mợ kéo tôi lên chùa bắt vạ. Tôi muốn giết y ngay, khi y ôm lấy tôi, luồn tay qua mái tóc tôi, thì thào an ủi tôi những lời vô nghĩa.
Tôi đã không còn đủ sức lực nữa rồi.
Vạt áo nâu của Chính bị nước từ mắt mũi tôi làm hoen thành một vết loang lổ xấu xí. Tôi muốn nôn mửa vì mùi hương sực lên từ tấm áo y.
Nhưng tôi ôm y mà khóc. Tôi dụi đầu vào cổ y. Tôi thì thào.
Chính này, trên đời này có bí mật hay không? Mọi việc anh làm, trong bóng tối, có thật không đôi mắt nào dõi theo ư?
Tôi bật cười.
Chính này, tôi biết cả đấy. Mà họ còn biết nhiều hơn tôi. Họ biết anh là Việt Quốc đấy. Nhưng cũng có thể anh là Việt Minh. Họ biết là anh chống đế quốc thực dân, muốn triệt tiêu chế độ thuộc địa. Cũng biết anh là người trí. Anh đấu tranh cho lý tưởng tự do. Anh yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào. Nhưng, họ cũng biết rất rõ, rằng anh yêu hơn cả, là con người cao đẹp bất khả xâm phạm, mà anh tự tưởng tượng về mình. Trớ trêu thay, anh lại chẳng biết mình là ai. Thời anh chẳng yêu ai cả. Anh chẳng biết cái gì là tình yêu. Mà vì thế, có chiến đấu cho tới giọt máu cuối cùng, anh cũng sẽ chẳng biết thế nào là tự do thật sự.
Chính lặng đi. Hoặc là y đau khổ. Hoặc là y không có cảm giác gì. Tôi chẳng còn quan tâm điều ấy nữa.
Chính này, bao năm nấp sau cánh cửa chùa ấy, có bao giờ anh nghĩ tới nhân quả không? Anh tin, hay anh chẳng tin gì sất cả?
Tự nhiên y quỳ sụp dưới chân tôi. Y nắm lấy hai bàn tay tôi. Gục đầu vào bụng tôi. Y cầu xin tôi tha thứ? Hay là y nghĩ dòng thời gian đã quay ngược trở lại? Nếu quả thật nhiệm màu ấy xảy ra, liệu rằng số phận chúng tôi có bớt thê thảm điêu linh chăng?
Nhưng phép lạ không có thật. Còn tôi đã bỏ y ở đó mà đi.
Tôi lang thang. Tôi thất thểu. Tôi ngất ngưởng băng qua những cánh đồng mờ mịt lạnh giá. Trăng sáng vằng vặc. Có trăm ngàn ngôi sao chiếu cố tôi. Tuyệt nhiên, tôi chẳng còn đau khổ nào, hoặc là tôi không thể cảm nhận nổi gánh nặng của chúng nữa. Chúng ngập đầy rồi. Thời tôi hòa tan trong đó.
Đã đi bao lâu? Con đường đưa tới nơi chốn nào? Tôi không còn nhận thức được.
Chỉ biết rằng, là kìa, giữa cánh đồng mông quạnh, ai đó gọi tên tôi. Tôi ngoảnh lại, thời thấy một bóng người từ phía xa, ẩn nấp ngụy trang bằng sương sớm. Từ phía ấy, một, hay một vài ánh chớp đã lóe lên. Tiếp theo đó là những tiếng sấm, hay tiếng súng, váng vất như tiếng hồng chung.
Tôi ngã xuống, lúa mới trổ bông ướt đẫm, đòng đòng mềm mại ôm lấy thân tôi.
Một chất lỏng nóng ấm giải thoát ồn ào khỏi cơ thể.
Chính là lúc, tôi đã trông thấy, một vầng hào quang rực rỡ chói lòa. Thầy ở đó, rất gần, cho tới khi...
Ánh sáng thủ tiêu toàn bộ miền tăm tối.
---
CC
04,2014
Thanh y huyết đỏ bầm tựa họa!
Tạm biệt 25.o8.2o18
CC
Nghe buồn làm sao, nghe quen làm sao,
kịch bản bi thương ấy...
tạm biệt 1o.12.2o17
CC
26.
Bơi bơi, những đứa bé vẫn cười
Nước nước, rối bời dòng đời mới
Trầm Kha, ở đất nước mình, có những bậc chú bác, ưa một cách nựng trẻ con. Họ cho đứa bé kẹo hay quà. Họ làm thân với đứa bé. Họ ôm ấp nó. Họ nằm lên trên nó. Họ cù lét nó. Họ hôn hít nó. Họ dạy nó trò chơi bí mật, họ cho nó xem chỗ kín, họ rủ nó động chạm vào, như cách họ động chạm vào chỗ của nó. Và đứa bé, Trầm Kha, trong trẻo, nghĩ rằng như thế mình làm vừa lòng người lớn kia.
Trầm Kha, ở đất nước mình, có những bọn con trai, thích chơi một trò chơi. Trò đuổi bắt. Chúng đuổi theo đứa con gái, chúng đẩy đứa bé gái ngã xuống, đứa này chồng lên trên đứa kia, nằm đè lên đứa bé gái, cả lũ con trai ấy. Đôi khi chúng sờ soạng. Đôi khi chúng cười rú. Đôi khi chúng dọa nạt. Và đứa bé gái, nghẹt thở, nhục nhã, Trầm Kha, câm lặng.
Trầm Kha, ở đất nước mình, rất nhiều người đàn ông bị ám ảnh vì máu, họ đo giá trị của người đàn bà bằng một vệt máu. Nếu người vợ hay người đàn bà của họ, trong lần đầu quan hệ, không chảy chút máu nào, họ sẽ khó mà yêu thương cô ấy như trước nữa, họ sẽ chán ghét khinh thường cô ấy. Có những người đàn ông lại tin chắc rằng, máu của người đàn bà có thể rửa xui, nên khi gặp vận kém hên hay để tăng quan tiến chức, họ tìm mua, để cướp máu, những cô gái trinh.
Trầm Kha, ở đất nước của mình, có nhiều người đàn ông không thích được đàn bà chăm sóc, mà chỉ thích được đàn bà phục dịch, hiến dâng. Những người đàn bà, nhẫn chịu, chỉ còn biết phẩm giá của mình nằm ở khả năng nô phục.
Trầm Kha, cậu có biết vì sao người đàn ông luôn cao lớn hơn người phụ nữ không? Chẳng phải do gen di truyền, chẳng phải do môi trường tác động, chẳng phải do tự nhiên định hình. Trầm Kha, chỉ bởi vì, từ khi loài người áp đặt giá trị trên đạo đức, thì người đàn bà luôn nhường dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho người đàn ông. Bởi vì, chỉ với loài người, giá trị của người đàn bà, Trầm Kha, được đo bằng khả năng hi sinh của họ.
Trầm Kha, có những người đàn ông đã chạm vào mình, lợi dụng mình, xâm phạm mình, khiến mình, dầu có rửa mãi, vẫn không thể cảm thấy sạch sẽ nổi. Nhưng mình không còn căm ghét họ, khi mình biết họ bị dục sai đẩy, bị dục ám ảnh, bị dục chi phối, bị dục điều khiển. Trầm Kha, ở đâu cũng có những người đàn ông cuồng dục, nhưng ở đất nước mình, dục khiến mọi giá trị rối loạn đến bất thường.
Điều khiến mình vẫn tiếp tục sống được, đó là cái nhìn tỉnh táo. Trầm Kha, mình vẫn tin tưởng ở đời có những người đàn ông mà phần nhân tính mạnh mẽ hơn thói dâm dục, họ biết trân trọng người đàn bà ở giá trị đích thực và chiều sâu của người ấy, họ được gọi là những người đàn ông tử tế đôn hậu, hoặc những người đàn ông hiểu biết thông minh... Hi vọng, là tin rằng cái gì đó rất hiếm hoi thật sự tồn tại, có phải không, Trầm Kha?
---
CC
04,2014
27.
Tôi ngóng. Tai ù đặc. Một thoáng chẳng hồi âm kéo lòng tôi chảy dài tới cả nghìn năm. Gian phòng trống trải bỗng trở nên ngột ngạt tới nỗi buộc phải mở tung cửa. Từ ban công chật hẹp, tôi hối hả hít vào khoảng khí lưu thông như một người vừa mới bị ngạt thở vì một chiếc chăn bông.
Từ bên ngoài, trời đột ngột lạnh căm. Cũng có nắng, óng ả thời cuối ngày, nhưng người tôi giá run. Thứ lẩy bẩy bấp bênh thật không hề đơn giản. Môi bỗng thèm cảm giác chế ngự một điếu thuốc. Giữa hai hàm răng là cảm giác trống vắng cái dai nhách đắng ngọt của một miếng đầu lọc. Mắt muốn trông thấy làn khói cay nồng xộc cuống mũi bay lên. Cổ khô cồn như một kẻ đương đi dưới trời nắng hạn.
Tôi thấy mình già nua như một người đã tiến thật gần với điểm chết và đang hồi tưởng lại quãng đời đã qua, nhưng nhật vật chính lại chẳng phải là mình.
Lòng tôi đắng chát, khi em kể về ước mơ được khoác lên mình chiếc áo cô dâu, khi em còn là một bé gái trắng trong ước mơ làm công chúa. Nhuốm dòng đời, em không bao giờ còn muốn mặc áo váy bồng bềnh gì nữa. Có ý nghĩ rất kỳ khôi, thế như là cố bao bọc những ước mơ khiết sạch khỏi đám lầy dục vọng, thứ đã lây lan rồi bám rễ khắp làn da em, vấy bẩn ra cả những gì em đã từng chạm tới.
Khi tự đáy lòng dềnh dấy lên một cảm giác khinh miệt tự thân, là lúc em nhận ra, có đôi khi, mọi thứ đều trở thành nút mắt của một chuỗi xích tự sinh phức tạp, ngay cả khi ban đầu nguyên do chỉ tại đống hạt mầm và những nụ hoa.
Như thế đấy, sau một chút lịm im, thảng nhiên, cô thiếu nữ quẫn khổ của em, dại dột, lần đầu muốn được yêu thương, người đã bị em muốn lãng quên, cất tiếng.
Cô gái ấy, vừa sang tuổi mười lăm, không có cha bảo bọc, không được mẹ chăm sóc, chẳng biết đến hơi ấm gia đình, tròn trịa như một bông hoa dại khờ còn căng sữa, kể lể về quãng ngưng khốn khổ của mình, bắt đầu từ những đêm bỏ nhà lang thang, đứng đợi người tình đầu trước cánh cửa sắt khóa, cạnh một cái chuồng lợn bẩn thỉu khai nồng.
Cô đã đứng đợi anh ta, đêm ngày như thế, chỉ để nghe thấy tiếng xe máy của anh ta trở về và căn hộ độc thân của anh ta sáng đèn. Cô đợi khi bóng vàng quạch tắt đi, để lẻn vào sân nhà anh bằng một chiếc chìa khóa đánh trộm, nằm co quắp ngủ trên sàn gạch, nép thân vào cánh cửa, ngu dại cuộn mình, lẩy bẩy run.
Người con gái đã bệnh hoạn đợi anh ta, tựa một kẻ điên, dưới nắng chang chang, dưới mưa xối xả, dưới bầu trời lộng sao, dưới nóng nực lẫn rét mướt, bất kể lúc nào, trong suốt những tháng ngày nhẽ ra phải tươi đẹp mơ mộng nhất của một thiếu nữ.
Cô gái đợi anh ta lau nước mắt cho mình và ve vuốt cơ thể cứng đờ đau đớn, trong khi gã đàn ông mải chùi mớ tinh dịch nhầy nhụa trên bụng cô, và hỏi vì sao cô không chảy máu. Cô gái đợi anh ta gọi tên mình, và cô nhận được lời anh ta xua đuổi. Cô gái đợi anh ta quay lại, và cô thấy anh ta bỏ đi. Cô gái đợi được anh ta yêu, và cô nhận được thói ghen tuông nghi vấn. Cô gái đợi anh ta chào đón thai nhi, và cô thấy anh ta chẳng buồn thăm hỏi khi cô trút bỏ đứa con đầu lòng khỏi thân thể. Cô gái đợi anh ta tôn trọng, và cô bị anh ta khinh thường. Cô gái đợi anh ta bao bọc nỗi cô côi, và cô nghe anh ta sỉ nhục hoàn cảnh mình. Cô gái đợi anh ta cưới mình, và cô nghe anh ta gọi cô là gái lăng loàn. Cuối cùng, cô gái chỉ còn đợi để nhục mạ anh ta, vò nhàu anh ta. Cô đợi trông thấy anh ta đau khổ chết.
Chính là sự đợi chờ khủng khiếp của cô thiếu nữ ấy đã đẩy em đến cùng quẫn. Em không muốn cô ta giết ai, em cũng không muốn tự giết mình, em chỉ muốn thuốc cho cô ấy ngủ lịm đi, cho những thói hoang tưởng điên cuồng của cô biến ngóm cùng tiếng cô ấy gào thét, cho sự thể trở thành như một cơn ác mộng thôi. Chỉ là một cơn mộng thôi.
Nhưng kể từ mưu sự quyên sinh thất bại, như một cái bóng im lìm hiện ra khi có ánh sáng chiếu vào mình, cô thiếu nữ vẫn lặng thầm sống trong em, làm rối tâm em với những độc thoại cũ mèm. Cô gái ấy căm ghét em, căm ghét sống, căm ghét cả việc phải ngóng trông mong mỏi.
Cô gái mười lăm tuổi, tinh quái, nhìn tôi, kể, rồi cười. Cô gái bảo: Này nhà phân tâm, anh còn trẻ lắm, đừng có vội cả tin, về bất cứ điều gì, khi tất cả đều chỉ là ảo tưởng!
---
CC,
04,2014
28.
Dòng chảy âm thầm lao xao, quấy động cuộn tròn nhốn nháo,
Nhọc nhằn quan sát u uẩn, thể trí rối tơi, chỉ biết sáng ngời
Đó là một căn bệnh, Trầm Kha ạ, một căn bệnh nan y. Căn bệnh lận đận của tâm thức. Khi thì tủi hổ, lúc lại giận hờn, đôi phần trách móc, đôi phần biện hộ, chỗ này tốt đẹp, chỗ khác xấu xa, nhớ rồi lại quên, quên rồi nhớ lại, chẳng nữ chẳng nam, biến hóa khôn dò, không thể đoán biết.
Nó ấy, tưởng chừng chẳng cuối chẳng đầu, khi chỉ là một điểm rất nhỏ, bé tựa một hạt giống, nằm trong một bụi trần, khi lan tỏa thành cả dải ngân hà, hoặc bùng nổ cùng mọi chuyển dời của vụ trụ.
Nó ấy, cứ trôi chảy, ngấm ngầm, sợi mắt này sinh sôi, nối liền sợi mắt khác, tỏa thành những lời thì thào không ngứt. Nếu yên tĩnh mà ngắm nhìn, sự chuyển dịch trong tích tắc nhanh hơn điện tử của nó, hoặc là lắng nghe những điều nó rì rầm, sẽ có thể khủng hoảng hãi sợ vì giống tựa kẻ thần kinh. Có thể từ chối nó như trẻ con bịt tai mắt trước lời việc khó ưa, mà kể cả khi không muốn biết rằng mình đang nổi chìm trong dòng chảy ấy, ta vẫn chưa từng thôi bị nó khiển sai đưa đẩy.
Nó ấy, là tất cả câu chuyện, là tất cả tiểu sử. Nó ấy, khiến mình bối rối, hoang mang, giày vò, khốn khổ. Nó ấy, khiến mình say đắm, yêu thương, vui hỉ, hân hoan. Và, nó ấy, là nguồn gốc của mọi nỗi hoài nghi, ngờ ngại, sợ hãi, trong tâm mình.
Nó ấy, mình cảm thấy giống, ở sự bùng phát không thể kiểm soát, nên tạm gọi là căn bệnh ung thư của tâm thức. Bệnh ung thư của thân thể đã coi là nan y. Thế còn bệnh ung thư tâm thức, dùng thuốc nào để trị dứt?
Trầm Kha, một đôi lần, mình thấy cái gì khác, hoặc sự biến hóa của nó ấy, mình cũng không rõ, trong chiếc bóng của mình.
Mình giơ tay, bóng cũng giơ tay. Mình nằm xuống, bóng cũng nằm xuống. Mình không thể ra lệnh cho bóng đừng bắt chiếc mình. Bóng không nghe lời mình. Bóng chỉ phản chiếu. Nếu trốn vào vùng tối – một cái bóng của vật thể lớn hơn ta, sẽ không thấy chiếc bóng của mình, thì tự phụ rằng mình không còn bóng nữa. Kỳ thực, dẫu có mụ mị tự thân tới bao nhiêu, thì bóng vẫn luôn ở đó, cùng với mình, từ khi được sinh ra với cơ thể vật chất này, trong dạng sống phụ thuộc vào ánh sáng.
Hóa ra là, Trầm Kha, ai cũng đều là kẻ bị sai xử, dùng nhiều kiếp vẫn hoàn mộng mị cái tự tại an nhiên.
Trầm Kha, khi mình đã chấp nhận được rằng ý thức kỳ thực không hiểu thấu đáo mấy chi, thì lảng tránh và kìm nén cũng không mấy hữu ích gì. Trầm Kha, mình như thể một chiến binh kiệt sức chủ động đặt chân vào vùng chiến chinh mịt mờ, dù vẫn có đôi chút rụt rè dè dặt, nhưng không còn cảm giác hoảng hốt vì bị bất ngờ rơi tõm vào một trận đấu không tương sức. Như thể cái sống, đã bình tâm, khi đứng trước cái chết.
Để có thể lắng lòng nhìn xem, chỉ cần trọn tử sinh một niệm khởi.
---
CC,
04/2014
29.
Mối tương tư sáu năm trước ấy, em ngờ là, chỉ bắt đầu từ bữa mà tim em tái điếng, khi thầy ấy bất ngờ kể cho em nghe một câu chuyện... Một câu chuyện, mà thầy ấy đọc trong tập truyện nhân quả từ hồi mới xuất gia.
Thầy ấy kể, thế này:
Chuyện xảy ra ở một nơi rất xa, một thời rất xa, có người tự tu tập quán chiếu mười hai nhân duyên mà đắc thành đạo quả. Vị Bích Chi tu hành trong một hang đất, một ngày bị dột. Ngài thấy tâm khởi niệm, đã tới lúc trong thế gian có người đủ phước đức để hóa duyên.
Trầm mặc bước đi, Độc Giác tới ngôi làng đầu tiên. Giữa nhóm trẻ đang vô tư nô đùa đầu xóm, chỉ có hai đứa bé cảm mến vị khất sĩ lạ mặt, mà bộ đồ rách rưới không làm lu mờ tác phong thanh thoát. Hai bé rời đám chơi, chắp tay cung kính cúi chào rồi ân cần thăm hỏi nhà tu hành.
Nghe ẩn sĩ trình bày sự tình, một cậu bé thưa : Việc đó không khó, Thầy kiếm cục đất sét trét chỗ dột lại là xong thôi.
Đứa trẻ thứ hai nhanh nhảu tiếp lời : Tốt hơn cả là Thầy tới chỗ anh rể, nhà họ làm gạch, còn chị con là thợ gốm.
Khi này, dưới một nhành hoa côi, chị của em nhỏ đang ngồi trước cửa lò nặn bình như thường nhật. Thấy em trai dẫn lại một đàn ông áo quần chắp vá bẩn thỉu tới xin hóa duyên, nàng cũng phát tâm nhào cho người đầu tóc rối bời này một cục đất.
Hôm ấy chẳng có một làn gió, không khí đứng lặng như tờ, mặt trời rải xuống cái nóng đổ lửa, mồ hôi chảy thành dòng, người đàn bà lòng chẳng mấy hoan vui. Nhọc mệt, nàng nhăn nhó nghĩ : « Vị này thật là kỳ khôi, xin gì không xin, lại đi xin đất, khiến ta phải thêm một phen vất vả cực thân.»
Truyện viết rằng, do bởi công đức cúng dường cục đất sét ấy cho một vị tu hành đắc đạo, khi bỏ thân xác kia, người đàn bà được hóa sinh lên một cõi Trời. Hết phước báo chư thiên, nàng lại chuyển thân làm người, một người con gái còn giữ được đôi bàn tay có phép lạ của thiên nhân, điều đã đẩy đưa nàng trở thành hoàng hậu cả hai vương quốc, mà hai quốc vương chính là hai đứa bé kiếp nào. Chỉ tại, lúc nhào hình viên đất, nàng đã chẳng sinh được cái tâm thuần vui, nên lúc này đành phải mang một gương mặt thảm hại xấu xí, với phận số thăng bổng nhọc nhằn.
Em điếng lặng. Làm sao em có thể, từ sáu năm trước, đã nhiều đêm mơ chi tiết một câu chuyện đã in ở đâu xa..., một câu chuyện mà em chưa từng được nghe biết.
Khi ấy, em hỏi thầy ấy, cho em một pháp danh. Thầy ấy bảo: "nếu nói là pháp danh, phải có một chữ Nguyên. Nếu nói là giải thoát, phải có một chữ Siêu. Nếu gọi, nên gọi Nguyên Siêu.
Thế là, bao trùm lên em, là thăm thẳm cô côi của biển cả.
---
CC,
04/2014
"kiếp nào vì người mở cánh cửa phiến môn
thấm thoát đời người vì ai mà thương tâm đau khốn
hắc bạch phân tranh thủa nào liên lụy cả đôi tâm
từ ấy chẳng còn thiết năm tháng thăng trầm
kiếp nào vì người phổ một khúc tương tư
kiếp nào chẳng thoát khỏi một ván cờ sinh tử
kiếp nào một bi khúc tri kỷ chẳng cách chi kết nổi
còn những mong kiếp sau tương phùng ngộ hội? "
Tạm biệt 07.o2.2o15
CC
từng mộng thấy thi nhân Đường xưa ấy,
đề bài thi trên cánh tay mình,
nhưng đã chẳng biết làm sao ngâm vịnh,
nên vượt ngàn dặm thời không để chứng minh
*
mộng lai
trở lại,
trong một khúc ca,
trời ạ!
Tạm biệt 31.o3.2o16
CC
30.
Bạch Dị gục đầu thổn thức, khóc ngất bên giường Huệ Nguyên.
Làn da tiểu Huệ trắng bởn như phủ một lớp bạc. Từng cơn run rẩy phơi bầy những phân đoạn rét buốt cuối cùng thời vật chất phân ly. Đôi môi chú bợt bạt thoáng nở một nụ cười hàm đầy an ủi. Bạch Dị lẩy bẩy xiết chặt những ngón tay còn nguyên thương tích làm chú thoáng đớn đau. Mùi hương lạ trầm mặc ứa mềm căn phòng nhỏ .
- Bạch huynh xin đừng bi lụy như thế ! Có sinh thì chắc chắn có tử. Sinh tử chỉ là vọng tưởng thôi, chẳng thực thà đâu. Vả lại, tôi nay được trở về cố hương, rời đây hiện sang đất Phật, huynh phải lấy làm mừng, cớ sao khóc than?
Lệ giàn giụa làm mắt mỏi mệt, từng thớ cơ như bị cháy thiêu, Bạch Dị càng lớn tiếng khóc nấc, không cất nổi giọng cho trọn vẹn một câu, ghép lại được chỉ còn là lai láng tiếng nức nở rên rỉ, đầy bi ai thống thiết.
°°°
Bầu trời khuya tím tái không cố ý giấu giếm mảnh trăng treo. Mảng sáng mỏng mảnh, vắt vẻo, cong veo, cứa cắt cả vầng tán mờ chung quanh, gây quyến luyến như một kỳ tích. Chú tiểu Huệ đang động tâm chống cằm nghe côn trùng ngợi ca mùi nguyệt khuyết. Hòa Thượng đêm này lòng tịnh chợt nổi gợn bồi hồi, thấy chú tiểu muộn quá mà cũng chưa ngủ yên, liền gọi vào bảo hầu bút nghiên, chong đèn mài mực cho thầy thi kệ.
Hòa Thượng trầm tư vuốt mi mày óng bạc. Bóng sư gầy gò khẳng khiu in như khắc trên bức tường nan dường đang lẩy bẩy rung. Tuổi đã gần trăm mà tay không run, mắt không mờ, thư pháp vững như thạch bàn, bay như rồng múa, quắc tướng nghiêm trang tựa chính thầy.
Trong đôi mắt trong trẻo của Huệ Nguyên, bức thư họa là vũ nhạc. Ngàn cánh hoa được gió xuân nhẹ nhàng nâng vung vãi xuống nhân thời. Chú trầm trồ hào hứng lớn tiếng ngâm:
" Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thủy để bán phù không"
(*)
Xoa đầu tiểu Huệ, sư phụ chú cười, nụ cười khôn dò chiều sâu, đoạn âm trầm kể một câu chuyện hình như đã xa xôi quá đỗi.
Chùa Hàn San đêm ấy trăng khuyết lạ lẫm hệt đêm nay, sư trụ trì nhằm tiết nguyệt ảo huyền thốt nhiên vịnh ý đôi câu thơ. Chú tiểu hay chữ đang hầu thầy móng tâm họa vào hai câu cuối. Bài thi này xung yếu tương hợp duyên mà thành. Thầy cao hứng bảo trò hoan hỉ gióng chuông. Nay nhớ lại chuyện xưa, thấy nhân thế sự đời thoảng qua chẳng hơn gì cái nhấp nháy của một vì sao. Trăm năm ấy cuộc đời sắp trôi qua, tưởng chừng lại chỉ còn những khúc cắt gọn gàng được tỉa tót giũa mài cho phải đạo.
Trăng sáng có chừng ấy thôi nên chẳng khiến chú tiểu non trẻ hiểu được bấy nhiêu tâm sự của thầy. Chắp tay hỏi han cho thỏa chí tò mò, Huệ Nguyên thưa:
- Bạch thầy, người là sư chụ trì, hay là chú tiểu thủa ấy?
Hòa Thượng không tiết lộ gì thêm về những điều đã khuất nẻo, chỉ bảo chú tiểu Huệ ra sân gióng hồi hồng chung tưởng niệm cổ nhân, rồi không phải hầu thầy nữa, cứ thế mà tự động đi nghỉ.
Sớm hôm sau, lúc trời còn lảng bảng mờ, một vãng khách đã vạch mây tìm tới cổng. Bạch Dị tướng mạo tuấn tú, đai áo mĩ miều, cử chỉ quý phái, ngôn từ phóng khoáng, rõ ràng đã là công tử lại là tao nhân.
Râm ran viếng chùa cúng dường, nhân duyên gặp lúc Hòa Thượng vừa bước ra sân, chàng liền vái chào, tiện hứng phân minh trình bạch sự thể.
Chẳng là đêm qua đương lúc rong thuyền thưởng trăng, chàng xuôi theo dòng sông leo lắt bình yên, mà neo đậu giữa bãi ngô đồng cận kề chân núi. Trông bóng ngôi chùa lặng, chiếc cầu kiều, mặt nước trong, mảng trăng mỏng, cỏ cây hiu hắt, lòng nặng thêm tư lự cô liêu, hốt nhiên chàng hoài niệm tâm tình đau đáu của tiền bối Trương Kế thủa nào.
Ngày trước, khi thi nhân khởi hai câu thơ đầu thì mạch vần bức bí, chợt có tiếng chuông chùa Hàn San vọng tới đánh nảy ra được đôi câu sau. Khéo thay, ngày nay, Bạch Dị vừa đập phách ngâm tới nửa bài thơ thì vẳng nghe tiếng hồng chung của bổn tự. Nửa cuối kệ thi quen thân bất thình lình tuôn chảy đầy phiêu nhiên, mà mang mác, lại hân nhiên khác lạ. Cầm lòng xuyến xao không đặng, trời chưa hửng sáng chàng đã liền vội vã vượt núi lên chùa.
Đó hẳn là một mối tâm tình tương ngẫu đáng ngợi ngâm, Bạch Dị đằm giọng trầm như hát:
"Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền"
Điệu cười của Hòa Thượng sảng vang: Thật hay! Thật hay! Rồi sư chỉ một sa-di mảnh dẻ đang quét lá mà rằng: Đêm qua là chú ấy gióng lên hồi chuông đó.
Huệ Nguyên chậm rãi bỏ cây chổi tre xuống, cẩn trọng như thể đang nâng đặt một vật làm bằng sứ cổ thời, rồi mới thư thả chắp tay cúi chào. Chuỗi niệm Phật rời khỏi miệng chú thanh tao như tiếng ngọc. Bạch Dị đột nhiên choáng váng, bàng hoàng đến xây xẩm, lúc chú tiểu ngẩng lên nhìn thi nhân nở cười. Cơn thẫn thờ đổ ập xuống không báo trước, khiến tay chân Bạch Dị đờ đẫn hệt cốt tượng bù nhìn bị đông cứng bởi giá tuyết.
Chú tiểu người đến từ đâu mà đẹp quá! Da sương môi đỏ, mắt sáng tròn trong, mũi thanh mày liễu. Thân nam nhi sao có thể mỹ lệ tựa tố nữ trong tranh? Nét thoát tục, thanh tao, không trước nhiễm làm sáng rạng cả không gian xung quanh, mà Bạch Dị, vốn tự phụ tướng mạo mỹ kiều chưa từng ai hơn, vừa thấy Huệ Nguyên liền ngỡ mình như một ngọn đèn cạn dầu cạnh một đống lửa mới đượm.
Tiếng sét ái mộ nghiệt ngã vừa giáng xuống lãng tử cơn lốc luyến lưu. Vấn vương sững sờ thoáng một khắc thôi, đã là day dứt không còn có thể rời xa nữa. Con thuyền mắc cạn ở bến si lú chỉ đợi ruỗng mục, mủn rữa rồi mất dạng vào bùn nhơ. Ngụy trang kín đáo nhớ nhung, sau một thời gian thường hay tới lui, Bạch Dị cốt cùng xin tá túc luôn ở trái chùa. Buổi sáng nghiên cứu kinh, tìm hiểu luận; buổi chiều trải giấy bày bút họa thư; buổi tối vịnh cảnh ngâm thi. Hòa Thượng từ ấy có người đàm đạo. Còn si nhân được gần gũi trông ngóng tiểu Huệ Nguyên.
Tự dối lòng nào có lâu dài được hồi lâu, càng gần ngắm Huệ Nguyên ra vào thanh bạch vô tư, luyến thương đã chẳng chịu rời bỏ Bạch Dị, mà mối bệnh tương tư lại càng lúc càng sâu, mỗi thời thêm nặng. Không thể phủ nhận, không thể trốn tránh, không thể bấm bỏ, không thể lãng quên, càng không thể lý giải cơn cớ vì sao, mà uẩn khúc kỳ quái này lại vô phương tỏ bày giãi ngộ, Bạch Dị lao theo khát muốn, lại gớm tội nhơ, lún vào đầm lầy hoang hoại, cùng cực đầy ải. Tự cho bản thân phát rồ sinh bệnh, tự khinh tự ghét, tự sợ hãi tự kinh lo, tự âm thầm tự đầy đọa, thân mỏi tâm buông, chàng trôi mòn tâm tư vào hoang mang vất vưởng.
---
(*) " Mồng ba, mồng bốn trăng mông lung,
Nửa dường móc bạc, nửa như cung
Một bình ngọc trắng chia đôi nửa,
Nửa chìm đắy nước, nửa cài tầng không"
(**) "Quạ kêu, sương tỏa, trăng lui,
Đèn chài, cây bãi, đối người nằm co
Hàn San chùa bến Cô Tô
Tiếng chuông đưa đến con đò canh khuya"
---
CC
04/2014
31.
Vô vọng vần vũ ngập đầy toàn trống rỗng
Kẻ ở người đi vụn vỡ mấy xuân thì
Trầm Kha, ngày mà cậu từ đám tang người bạn ấy trở về, đôi mắt cậu mới lạc lõng làm sao! Khi một người quyết định chọn cách treo cổ, hay nhảy vào giữa đoàn tàu, nghĩa là người ấy thật sự muốn quyên sinh, Trầm Kha, cô ấy không còn có thể dung chứa nổi cõi sống. Và cô ấy cần được thấu hiểu, cần được ôm ấp, cần được thứ tha.
Nhưng cậu lúc này, chưa thể hiểu, Trầm Kha, rằng khi một người con gái bị hãm hiếp, bị nhục nhã làm cho tổn thương, bị lột cướp toàn bộ hi vọng, niềm tin không là gì khác ngoài cơn tuyệt vọng trần truồng, thì cái chết có thể trở thành một món quà dịu êm hơn cuộc sống nghiệt ngã vô vọng này.
Chân tình và lòng trắc ẩn, Trầm Kha, có thật, nhưng tội ác thì vẫn nhiều hơn, ở đời. Khi ấy, sống trở thành một cực hình, mọi giá trị trở thành trống rỗng, thứ rỗng tuyếch bóp cứng khiến nghẹt thở. Khi ấy, chết, trở nên rất dịu dàng, rất kiên nhẫn, rất bình an, rất đơn giản. Khi ấy, chính là sống phức tạp, chính là sống sợ, chính là nỗi sợ hãi của sống sợ.
Trầm Kha, chẳng có gì mất mát trong chết, ngoài sống cả.
Nhưng khi mình nói về cái chết, cậu mới thảng thốt làm sao. Sự bình thản giá lạnh của mình dường như đã xé toạc cậu ra trong những cơn lốc xoáy. Mà cậu lại chẳng biết cách đọc được nỗi buốt tái sâu thẳm trong mắt mình. Ôi Trầm Kha, người ta có thể mong chờ gì từ chết? Người ta chỉ có thể đòi hỏi ở sống, đối trước chết, một vẻ u uẩn, buồn thảm, phẫn nộ, ăn năn, mỏi mệt, chán ngán, nhạt nhòa, hư dối, sợ hãi, trốn tránh, trống trải, đớn đau...
Cái chết, Trầm Kha, mình quen biết một thảng hồi. Mình cũng sợ chết. Mình cũng tuyệt vọng tìm tới chết. Và kể từ thời khắc sức sống tự kéo tuột mình về phía nó, thì đứng trước chết, mình không còn sợ lắm. Trầm Kha ạ, chết mang vị bình yên, chết có hơi hướng giải thoát.
Chỉ là những người ở lại, Trầm Kha, những người còn bị sống trói buộc, sẽ phải chịu một nỗi thống đau. Nỗi đớn đau của sự mất mát.
Mãi mãi, Trầm Kha, chẳng gì có thể lấp đầy sự trống rỗng thuộc về cuộc sống này.
---
CC
04/2014
32.
Tiếng sáo thoát tục vẳng vọng chở theo mùi sen thanh thản kéo Bạch Dị khỏi những mê muội đơn côi, réo rắt phủ lên chàng một xúc cảm cao vợi. Bạch Dị thiểu não bước ra khỏi liêu phòng, chốn hang ổ, nơi ẩn náu kín đáo che chở dục vọng chàng mỗi lúc rình rập ngóng tưởng Huệ Nguyên. Con đường mòn quanh co giữa rừng trúc lơ đãng ngập chân chàng vào lá nhọn. Bạch Bị tưởng trăm chục xác bướm khô giòn vỡ tan dưới mỗi bước chàng đi. Ý nghĩ ấy khiến chàng buồn mang mác.
Nhưng bản hòa tấu bình dị của chim ca, suối hát, gió reo, sáo ngân sớm dứt Bạch Dị khỏi thế giới mộng mơ buồn thảm. Chàng tìm thấy Huệ Nguyên bên cạnh con suối nhỏ, gác chân trên một mỏm đá chênh vênh, tấu khúc tự cảm cúng dường cho cảnh sắc biến động chóng tàn. Nắng dịu dàng rắc rải xuống chân chú, dâng tặng những đóa hoa phát quang. Bóng cây chậm rãi bò dọc theo bãi đá, liếm láp những giọt nước cuối cùng đang chực bốc thành hơi. Cảnh tượng dạt dào đánh động vùng hồi ức mê hoặc đã lãng quên, không còn gì rõ rệt hơn một xúc cảm mong manh. Vài cánh bướm chập chờn đậu vào đám hoa hoang dại màu đỏ ối như những giọt máu ướt.
Bạch Dị run rẩy quỳ xuống bên một phiến đá lớn phẳng phiu, tay nâng niu vuốt ve bên lề bức tranh đẹp của Huệ Nguyên còn chưa khô nét mực. Khi tiểu Huệ rạng rỡ ngồi xuống cạnh kề, bắt đầu cuộc chuyện trò, Bạch Dị liền cất lời hỏi han nhẹ nhàng, thân ái:
- Huệ Nguyên ơi, chú họa ai?
Khua sáo trúc, Tiểu Huệ vui vẻ trả lời:
- Bạch Dị huynh à, là Đại Sĩ Quán Thế Âm.
Tin tưởng và quý trọng ngập đầy tia nhìn của Huệ Nguyên, sáng trong như sao sớm, ấm áp hướng về Bạch Dị - vừa đảo mắt xuống Phật tranh hòng giấu giếm nỗi lòng ám muội đang rút dâng bổng trầm. Cõi lòng héo rũ chực nở nụ khấp khởi rộn ràng của Bạch Dị, quẫn quanh, lén lút, trốn chạy nụ cười ngời rạng chưa từng biết tới giả tạo của tiểu Huệ. Bối rối một hồi để khống chế đắm say, Bạch Dị rồi cũng cất thêm một đôi tiếng:
- Kinh Phật, chú Huệ Nguyên, tôi đọc cũng nhiều, nhưng quả lòng vẫn thật chưa hiểu về Đại Sĩ Quán Thế Âm, chú có biết, xin chỉ giáo cho!
Mắt rực sáng, Huệ Nguyên chắp búp tay. Miệng nở hoa, tươi cười chú ôn tồn mở lời thông tuệ.
- Bạch Dị huynh, hạnh nguyện Bồ Tát là quán nghe mọi âm thanh ở đời, nên danh gọi Quán Thế Âm.
Kìa Huệ Nguyên nhoẻn cười, ôi cả một biển đầy hoa bừng nở rực rỡ nở trong mắt kẻ tình si. Phải chăng yêu thương ngập tràn cũng đồng nghĩa với lối ngộ nhận đầy sắp bầy của duyên nghiệp? Bạch Dị đầu óc mơ hồ, cắn môi chau mày, tư lự kiềm chế mối xúc cảm, bứt rứt vang vọng mãi nỗi nhói đau dường như bất tận.
Trong nỗi ngao ngán, mỏi mệt, Bạch Dị e lệ chiêm ngưỡng chú tiểu Huệ thảng lâu. Không thời đột ngột trở nên khô hanh, cơn thử thách khiến sỏi đá cũng muốn nứt nẻ. Thân thương tuồn rỉ thành tia nhìn từ tâm tình khuất tất, oái ăm khổ sở thay, khôn nguôi dai dẳng đã chuyển biến từ vạn kiếp lâu xa. Giọt thở dài não nề rớt ra từ đôi môi tê tái:
- Bồ Tát ấy tịnh thanh, không tham không dục, chẳng sân chẳng si. Tâm khiết bạch ấy làm sao có thể lắng nghe những chuyện đời uế tạp, những tâm bẩn ý nhơ, chú Huệ Nguyên?
Huệ Nguyên duyên dáng lắc đầu, tác phong như loài thiên hạc rũ rời đôi giọt nước.
- Nam mô Phật! Bạch huynh, trong tướng của âm thanh có xấu đẹp, có tịnh nhơ, nhưng trong tánh của âm thanh thì như thị.
Ngừng một chút cho nước Pháp, qua thanh âm, thấm ngấm vào nội tâm, chú tiểu thỏ thẻ tiếp, tiếng nhẹ vui của lá tùng reo:
- Trong âm thanh, Bồ Tát quán tướng, quán tánh, không phân vân trung đạo.
Nhưng Bạch Dị chẳng thoát khỏi trầm tư, mắt u buồn lạc về miền xa xăm, tiếng thầm thì khôn dò vương vấn:
- Nhưng tôi, tôi tạo nghiệp tội nặng nề lắm, chú Huệ Nguyên ạ, liệu Bồ Tát có lắng nghe tiếng tâm thở than của tôi chăng?
Trong vắt đôi mắt, Huệ Nguyên hỏi han:
- Nghiệp tội làm sao lại gọi nặng nề, Bạch huynh?
Lời từ ái Huệ Nguyên rót vào Bạch Dị một thoáng bình tâm. Nhưng tình cảm bị kìm nén trước phong tư mẫn tiệp sáng trong của tiểu Huệ chẳng mấy chốc lại xâm chiếm cõi lòng, khuấy động sóng bi thương nổi cuộn lên thành đợt. Trăm vạn tâm sự u uẩn không biết phải bắt đầu từ đâu, bất giác chẳng cầm nổi lệ sầu, chàng thốt lên một tiếng thở than ai oán:
- Chú Huệ Nguyên ơi, tôi khổ sở quá thôi! Tôi đã chẳng còn thiết sống thiết chết chi nữa rồi. Thân phận tôi, bị trò đùa oái oăm của con tạo xé toạc, rải vương vung vãi huệ mạng dát đường vào địa ngục. Có loài quỷ đói ma mị hiện đang gặm nhấm, thiêu đốt lương tri tôi. Nỗi nhục nhã khốn thương này, tôi, bất lực cứu vãn…
Huệ Nguyên thảng thốt nhìn Bạch Dị. Mãi tới lúc này chú mới nhận ra vẻ tiều tụy ngơ ngẩn đang lạc lõng tự hủy báng của chàng. Suy sụp tinh thần nào có sức phá hoại nét mỹ miều tao nhã thế kia! Lòng chú đột nhiên dâng dâng nỗi niềm khó nhẫn chịu, cảm giác tựa như có ai đang tâm tự bên trong đâm băm ngàn nhát kiếm. Chú không biết và cũng chẳng màng lý giải tâm trạng nhức nhối nặng nề khó xác định này. Một lòng, chú chỉ mong muốn khuây khỏa an ủi người khổ bạn. Nên từ mẫn trào ra mượt mà cả giọng nói, hòa lẫn tiếng trúc rụng nức nở khóc than, Huệ Nguyên căn vặn kẻ phiền lòng đang khốn khổ:
- Nam mô Phật! Bạch huynh ơi, huynh đã gặp chuyện gì, huynh có tâm sự chi, mà sao thốt lời cùng cực khổ sầu nông nỗi vậy?
Giọt nước mắt thê lương tan ra từ khóe mắt thi nhân. Uất ức không chi diễn đạt ra bằng lời, cứ mãi lu bù tìm hướng ngập ngừng lảng tránh. Chướng tình lẫn lộn này vốn là nghiệp khổ lụy của riêng chàng, số phận thảm thiết mà chàng phải gánh chịu một mình, dẫu bi oán cũng nào liên can gì tới tiểu Huệ. Nhưng đối trước ánh nhìn Huệ Nguyên ấm cúng ngập đầy lo ngại hoang mang, chàng lạc mất phương cách ẩn giấu ưu uất mình. Chỉ vào tấm họa mực vừa mới chực khô, Bạch Dị tái tê hỏi:
- Này chú Huệ Nguyên, chú giảng tôi hay, vì sao Quán Thế Âm Bồ Tát vốn là người nữ, mà trong tranh chú lại vẽ là nam?
- Nam mô Phật! Thưa Bạch huynh, Bồ Tát vốn chẳng phải nữ nam, tùy duyên chúng sinh mà hiện tướng nam nữ.
- Này chú Huệ Nguyên, khi Bồ Tát đang hiện thân nam, có chuyển thành thân nữ được không?
Lúng túng, chú tiểu Huệ ngập ngừng phân bua:
- Nam mô Phật! Chuyện này… quả thật tôi không dám thốt lời càn bừa.
- Này chú Huệ Nguyên, nếu tôi sắp chết, mục ruỗng dần dà trong khổ sở khốn cùng, bị gặm nhấm bởi những tội lỗi không thể dung tha, chú có thiện tâm cứu vớt tôi không?
- Nam mô Phật! Chắc chắn là tôi sẽ tìm mọi cách, dù có phải hi sinh thân này, để giúp Bạch huynh rồi!
- Chú Huệ Nguyên ơi, nếu tôi tiết lộ sự thể là, những muốn giải cứu tôi, chỉ có một cách duy nhất, là chú biến thành người nữ thôi, chú có làm được không, hay chú đành lòng để tôi thác vào Hàn Băng đại ngục?
- Nam mô Phật! Nam mô Phật! Bạch huynh, là sao?... Chuyện này là sao?
- Chú Huệ Nguyên ơi, tội lỗi quá rồi! Chú Huệ Nguyên ơi, là... tôi... yêu chú!
*
Gió vần vũ khiển trách khí trời khi Huệ Nguyên quỳ mọp trước Hòa Thượng, khóc nấc mãi không thôi. Nhiều ngày sau, chú tiểu Huệ ẩn mình trong tĩnh am không tiếp gặp ai, đêm lẫn ngày khẩn thiết niệm Phật và sám hối.
Hòa Thượng cho mời Bạch Dị tới, thận trọng đàm thoại riêng tư. Sự cố bất ngờ xảy tới đã vạch trần bí mật bấy lâu chàng cố công che giấu, thủ tiêu mọi vọng ước lố bịch nhất đang chế ngự lòng chàng. Thi nhân dè dặt ôm cõi lòng ốm uất lặng lẽ rời chùa. Chưa được bao lâu, chàng đã như điên như dại, đêm ngày say sưa, nói năng lảm nhảm, thơ thẩn vẩn vơ, sầu muộn cuồng điên, ngày càng thêm phần rồ dại.
Vào một buổi chiều tà, khi mặt nhật rã rời thành những vết thương vằn vện, đỏ quạch, cào cấu tím tái khắp da trời, trong cơn túy lúy, Bạch Dị đảo lết đến trước chùa vật vã khóc than. Chàng thảng thốt kêu tên chú tiểu Huệ Nguyên, ngâm đọc những bài tình thi đã bóp nghẹn sinh mệnh chàng, kể lể những câu chuyện không đầu cuối đã dìm đắm minh mẫn chàng.
Trong phong thư mà chàng đã cắt tay đề thơ huyết, Bạch Dị hẹn tiểu Huệ Nguyên trên chiếc cầu kiều, chỉ để nói lời vĩnh biệt. Chàng đã thề rằng, những kiếp sau kia, hễ chàng là nam, thì Huệ Nguyên phải là nữ, hễ chàng là nữ, Huệ Nguyên phải là nam. Lời đã thệ xong, chí đã tuyệt đường, chàng chỉ còn nước quyên thân tự sát.
Đêm ấy trăng sáng tựa gương soi. Cuồng thi nhân đến giữa đỉnh cây cầu, chỉ trời mà chửi, chửi rồi lại than, than rồi lại khóc, khóc rồi lại cười, cười rồi lại phẫn nộ. Điên rồ cuồng loạn thế mấy thôi, cốt cùng ngó trông mặt nguyệt dưới nước lung linh ảo huyền, Bạch Dị quyết buông thân xé tan làn nước buốt, đòi vớt trăng kia làm quà cho tiểu Huệ, trước khi tự kết liễu kiếp đời thê thảm, nhục nhã, trớ trêu này.
---
CC,
04/2014
33.
Cởi mở, điên cuồng, nhạy cảm.
Hai tiếng rưỡi, trôi qua đời nhau rất nhanh.
Trầm Kha, vài bận sau ngày mình tìm tới cậu, yêu cầu cậu trang hoàng chiếc ghế này, mình gặp y, trên một chuyến tầu siêu tốc.
Xác xuất sẽ là bao nhiêu để hai người xa lạ, đến từ hai quốc gia xa xôi, một người hầu như không bao giờ rời khỏi nhà, một người là kẻ lãng du, có thể gặp nhau trên cùng một chuyến tàu cao tốc hai mươi mấy toa, Trầm Kha ?
Thế mà, vào chính thời điểm ấy, trên chuyến du hành ấy, ở toa tàu ấy, đúng chỗ ấy, y gọi với mình: Bạn đang tìm ổ cắm điện phải không? Ở đây này.
Không, Trầm Kha, mình không tìm kiếm gì, chỉ bởi một thúc đẩy vô hình khó nhẫn chịu nào đó khiến mình buộc rời khỏi chỗ ngồi, đi tới qua loa.
Trầm Kha, mình, chẳng mấy khi nói chuyện với người lạ mặt, đã ngồi xuống, đối diện y. Mình nghe thấy tiếng mình bật cười. Mình thấy vẻ sửng sốt của y, khi lần đầu nhìn thẳng gương mặt mình. Mình biết cuộc chuyện trò bắt đầu và chúng mình cười ngất.
Mình nghe y hào hứng kể về cách khốn khổ mà y được sinh ra, về gia đình bệnh hoạn mà y từ đó ra đi, về cuộc đời tuyệt vời và thảm hại mà y sống, về cuộc cách mạng mà y muốn khơi mào lên. Mình ngắm sự hào hứng khi y khoe mình xem những bộ phim táo bạo mà y vừa là biên kịch, vừa là đạo diễn.
Qua những bức ảnh tuyệt đẹp mà y chụp, những mảnh đất trù phú mà y đã đi qua, những con người thú vị mà cậu y đã gặp, mình nhận ra, đôi biểu tượng mà y treo nơi làm việc, để nhắc nhở y về sự hỗn loạn, thứ chính y cũng không hề biết là những lá quốc kỳ. Chính là những lá quốc kỳ đã làm đau giấc mộng sáu năm trước của mình... Xót xa biết mấy !
Mình nhìn y nói. Mình ngắm y cười. Mình nói ra lời tâm tư nổi loạn đầy nhiệt huyết của y. Mình đọc thấu sự tuyệt vọng điên rồ trong y. Mình thấy y lúng túng. Mình cảm nhịp tim y loạn. Mình nghe thấy tiếng lòng y rung. Mình thấy tia nhìn cậu ấy đắm.
Mình lạnh lùng trước lời y tán tỉnh. Mình từ chối khi y muốn ôm chầm. Mình bật cười khi y muốn hôn. Mình chế nhạo khi y năn nỉ.
Và, lòng mình, lòng mình thật hoan vui, như gặp lại một người thân quen đã xa cách quá lâu, cùng lúc lại dâng tràn cơn thảng thốt buốt tái...
Y mở máy tính riêng, cho mình xem vài một phim ngắn mà y đã viết, đã chính mình đạo diễn, hoặc góp phần tài năng dàn dựng nên. Y nhìn thẳng vào mình, và mình biết có một sự chân thành không thể ngụy tạo.
It's not the first time, em khiến tôi nghĩ về bộ phim này... It's not the first time, chắc chắn là vậy, phải không? Bởi làm sao, chưa bao giờ biết nhau mà em lại có thể khiến anh rối loạn đến vậy?! Nếu em chưa có chồng, chúng mình chắc chắn sẽ yêu nhau phải không? Hay hãy yêu anh đi, dầu vài phút trên chuyến tàu này thôi nhé...
Không, mình bảo, hãy giữ tiếng cười, của mình, cho riêng bạn, như một món quà; và thói bóng gió châm chọc của mình, làm đau hay gây cười bạn. Hóa ra ở đời có những người hiểu nhau quá nhanh. Và cả ánh mắt nhìn, của mình, thấm thật sâu, vào chính sự điên rồ thách thức mọi giới hạn của bạ n. Nhưng, đừng đụng vào mình ! Hãy tôn trọng mình! Vì, mình cảm thấy an toàn, khi tự nhốt, trong những giới hạn.
Trầm Kha, thế mà, mình đã phải ngồi thụp xuống, sau khi y đột ngột biến mất - vẫn thế, tựa thể hòa tan vào thinh không, giữa sân ga, với lời cuối cùng : Là em sẽ gọi cho anh nhé... nếu em không sợ, để chúng mình gặp lại được nhau.
Nước mắt cứ tự ứa ra, mình không điều khiển nổi cơn nghẹt thở, ôi, Trầm Kha!
Dầu cho mọi giấc mộng đã úa tàn từ rất xưa đã từng kéo gọi hạ màn, thì mình vẫn chưa bao giờ cảm thấy cơn choáng váng nào mãnh liệt đến như thế.
Ánh mắt ấy, nụ cười ấy, cử chỉ ấy, hành vi ấy, tư tưởng ấy, niềm tin ấy, hi vọng ấy, hoài bão ấy, sự điên rồ ấy... tâm thức ấy, trong một thân thể hoàn toàn xa lạ thế kia, lại vẫn chẳng thay đổi là bao.
Để nhận ra được ngay.
Vì, Trầm Kha ạ, dầu cho ý thức mình không muốn tin tưởng điều gì, nhưng có một sự biết động cuộn lên trong mình, làm mình vửa hoan vui mà lại vửa khổ sở.
Y, là Chính.
Là Chính, Trầm Kha ạ.
---
CC,
04/2014
It's not the first time...
Chẳng phải lần đầu tiên, Chính ạ, với tôi cậu đã từng, nay lại những muốn, không chỉ một phát bắn. Ôi này những vòng quay!
Gì chẳng thể có được, gì chẳng thuộc về mình, thì vò nát, hủy đứt đi.
Chính, nhỉ, đến bao giờ, cậu mới hiểu tình yêu?!
Tạm biệt o4.o7.2o14
CC
34.
Trần gian ngôn ngữ pháp trận đồ
Hoảng trông tiên cổ, mảnh trăng thô
Đáy nước rung rinh say người tỉnh
Vớt ấy điêu linh họa lỗ lồ.
Làn da mượt mà non nớt của Huệ Nguyên hầm hập sốt suốt mấy ngày rồi. Sau khi lao xuống nước kéo được Bạch Dị lên, vận hết sức bình sinh tha thếch lôi được phận người mê si sũng ướt về tới chùa, chú liền ngã bệnh.
Chừng ấy ngày chú tiểu Huệ miên man, li bì, mê lịm.
Chừng ấy ngày Hòa Thượng trú dạ không chợp mắt, chẳng buông ngơi tiếng hộ niệm, dẫu chỉ một thoáng giây.
Cũng chừng ấy ngày, Bạch Dị quỳ mọp trước chánh điện thảm hại khóc than. Miệng niệm Phật, thân lễ Phật, đêm không ngủ, ngày không ăn, mỗi sớm mai chàng đốt một ngón tay, tự tổn thương tới ngón cuối cùng trên một bàn tay thì Huệ Nguyên gượng tỉnh. Nhưng dầu chàng chân thành hối hận là vậy, Hòa Thượng vẫn nhất định không để Bạch Dị tới gặp người chàng luyến thương.
Không phải là sư thờ ơ, lãnh đạm trước nỗi khổ nhục của si nhân. Chỉ bởi vì Huệ Nguyên bạch thầy rằng hoa sen đã nở bừng trước cửa, chú sắp phải ra đi. Thế mà, cùng lúc, phía dưới chân mình, chú cũng thấy vô số những chúng sinh trầm luân thống nạn. Chúng đông nhúc đang chịu khổ ải, kêu khóc, van lơn, lạy lục chú, nài xin chú ở lại cứu độ. Và kìa, giữa đám nạn dân quằn quại, xô đẩy, chà đạp nhau kia, chú trông thấy bị giày xéo hơn ai, chính là chàng Bạch Dị.
Thấy cơn nguy, Hòa Thượng mỏi lời phương tiện an tâm chú. Nhắc nhở rằng giây phút lâm chung ma sự trùng trùng quấy nhiễu, oan gia trái chủ bao phủ vây quanh, hiện diện ra lớp lớp tướng lành điềm ác. Một mảy may luyến lưu dùng dằng thôi là sẽ lại bị cuốn rơi vào dòng sinh tử mịt mờ. Mà cái bẫy nguy hiểm nhất của người tu là vọng tưởng cứu độ chúng sinh. Hòa Thượng trì chú vãng sinh, niệm hồng danh Phật, khuyên chú muốn giúp người thì nên bình yên theo tánh sáng mà đi, đừng vấn vương trù trừ bất kể chuyện chi, thế sự rối rắm bao nhiêu cũng đã có thầy mở tay lo liệu.
Thế nhưng, một canh, rồi hai canh, Huệ Nguyên chẳng đặt nổi gót lên tòa sen thanh, tâm lo quanh vẫn một mực khẩn thiết muốn đòi gặp Bạch Dị. Nói đôi tiếng dặn dò khuyên lơn, thì chú mới yên lòng, chú hứa. Ải chướng nghiệp này, trí tuệ chú vẫn chưa tỏ thông để có thể lướt qua.
Hòa Thượng cầm chẳng nổi tiếng buồn bã thở dài, đành cho kêu Bạch Dị lại tiễn đưa tiểu Huệ.
Vừa thấy Huệ Nguyên, Bạch Dị liền quỳ sụp khóc nấc chẳng nói nổi một lời. Ăn năn bi thống hòa với tội chướng tiền oan, khổ sở khốn cực như luân hồi nghiệp báo nối nhau dài vô tận.
- Huynh đừng tự trách, không phải lỗi tại huynh đâu. Duyên đã hết, việc ở đây dường cũng xong, nên không vì nguyên do ấy, ắt tôi cũng tự nhiên đổ bệnh để bỏ thân, nào có ảnh hưởng tới ai. Xin huynh đừng thê lương làm cả hai phải ân hận. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, phải nên bảo trọng, vì bản thân huynh và cũng là vì tôi, hãy một lòng tu tập! Nếu huynh thương tôi, thì ráng giữ giới, chuyên tâm tu niệm, hướng tâm an lạc, độ thảy phiền não, thoát tham sân si… Là vậy, há chẳng vui vẻ hơn sao?
Nhưng lúc này, Bạch Dị rối rắm, cùng khổ, quẫn trí quá rồi. Chàng chỉ còn thấy một khối tội nghiệp sâu dầy, tự thân không cách gì dung tha, chia tay kiếp này, biết đến bao giờ mới được thấy lại nhau? Huệ Nguyên đi, dẫu là nẻo đường nào, thì cả đời này của chàng, và đời sau nữa, cho tới khi chết cũng sẽ không thể yên lắng. Chàng nèo kéo Huệ Nguyên nấn ná, cầu xin chú tiểu bi mẫn đừng vội vàng đi, lưu ở cõi này thêm cứu giúp chàng sám hối. Rồi chàng lại khẩn cầu Huệ Nguyên, hãy ghi khắc rằng, nếu có còn gặp nhau, Huệ Nguyên nhất định chớ lãng quên chàng.
Thời gian ngắn ngủi, ngôn ngữ rối ren, tình cảm oan trái buộc ràng, Huệ Nguyên chùn tâm mỏi lời. Chú đã yếu lắm rồi. Cố dằn cơn đớn đau khi tứ đại bắt đầu cuộc chia ly, chú buông lời sau chót:
- Hứa đi! Xuất gia… tu học… cầu giải thoát! Giải thoát...
Trời cuồng nộ nổi bão giông ai oán. Mưa xối xả ném giận dữ xuống thế nhân. Gió tức tối bẻ cong oằn từng cành trúc. Những lằn chớp điên dại rạch nát mọi khối mây. Trống sấm trôi nhòa vào tầng không, sau loạt chuỗi rền vang loạn óc.
Hòa Thượng lặng lẽ nuốt giọt lệ khô, tâm sư đang tự biết mình cũng sẽ cuốn theo họ trong những vòng xoáy tròn. Mà con đường mỗi người tự chọn, sứ mạng của mình ai nấy tự biết. Bạch Dị vừa hứa vội, hoa sen ẩn mất, thì thân thể Huệ Nguyên trút dứt một hơi dài, để không còn hít vào thêm một lần nào nữa.
---
CC,
04/2014
35.
Lần cuối cùng tới tôi, sau những giọt nước mắt xót rơi lên giấc mơ trăng của Bạch Dị và Huệ Nguyên, em nhất quyết đi...
Mặc cho người đàn ông xa lạ mà hoàn toàn quen thuộc trên chuyến tàu kia suốt nhiều tháng liền tìm cách đón gặp em, em lạnh lùng cắt mọi liên lạc. Với y, em bảo, dòng sống này, đủ dài, dừng lại ở đây thôi. Em muốn dừng nổi trôi, thê thiết, lặn ngụp trong tuyền mộng. Em muốn chính tay viết nên phận đời hiện tại, của riêng mình.
Nghe em nói, ngắm bức vẽ em tự tay họa y, tâm tôi cuộn cồn những đợt sóng xót. Nếu em tin y là Chính, và tôi thấy mình đẵ bắt đầu tin em, thì tôi... tôi là ai? Tôi là ai? Tôi đóng vai nào? Trong dòng mộng mà tôi thấy thân quen quá độ. Đến mức tôi thậm chí có thể thấy chúng nhưng những thước phim. Và thậm chí, tôi nhìn thấu rõ chúng?
Vì sao, cự tuyệt Chính, em - ôi đôi mắt tím cứa biếc trái tim tôi, em cũng từ giã cả tôi cùng lúc?
Trong phong thư tiễn từ đến muộn hồi lâu sau khi em dời đi, em muốn tôi đừng tìm em nữa. Dầu có như một người bạn, thì em cũng muốn giữ lại những gì đẹp nhất của nhau, cho đến tận đây. Đọc những dòng chữ viết tay, tôi sụp xuống, bởi một cơn đau không thể thoát ra thành tiếng. Một cơn đau tôi chưa từng biết tới ở kiếp sống này, nhưng có lẽ đã từng kinh qua trong một vài cuộc sống khác...
Mười năm đã trôi qua, từ lúc dòng mộng em biệt tôi. Ngày mỗi ngày, nơi tôi, chỉ toàn những thước phim tuyền hai màu đen trắng. Một thời gian rất lâu, tôi sống trong mâu thuẫn, phủ nhận, xa cách, làm hại, đầu độc chính mình, nhân danh tình yêu và đạo đức. Rồi tôi cũng kết hôn. Vợ tôi, một cô gái Việt Nam, mà em chưa từng quen biết. Thế mà, thực ra, tôi lại không thể thật yêu. Giống như thể tôi chưa bao giờ thật yêu... Tôi chỉ mải tìm mãi ở nơi vợ mình, những nét nào hao giống em, mà không làm sao bắt gặp...
Mười năm, đằng đẵng bặt tin, giấu biệt những thăng trầm nội tâm, tôi mải miết quay lưng với chính mình, đắm chìm trong cuộc kiếm tìm những ngày sống bình yên, êm ả, không ghềnh thác, như tôi từng mong đợi. Nhưng tôi vẫn chỉ miết mải đi mãi trên một sợi dây mảnh mai, giữa đôi bên bờ sống, hụt hẫng khôn nguôi. Cảm giác của người đi trên dây mà bị đánh mất cái sào dài giúp cho mỗi bước cân bằng, nên lúc nào cũng lo hãi chực ngã, bổ nhào xuống mà không có cơ hội nào để bắt đầu làm lại từ đầu.
Mười năm, và lời em vẫn vang mãi trong tôi như những tiếng hồng chung...
Em nói,
có lúc, em mệt, gánh đôi bờ, việc nuốt vào trong tiếng thở dài, bằng cách này hay cách khác, ngắm nghía để xoay chuyển nỗi âu lo. Biết chỉ là ảo tưởng, nhưng màn sương gá vào làn da vẫn gây run rẩy lắm... Nghiệp, nên thành ra tiếu nhạo âu rầu.
Em nói,
kể từ ngày nhất định lần hạt sen, văn chương bỏ em lại, bay đi một mình. Ngôn từ, chẳng còn mấy ý nghĩa, chỉ là đống có - không lấp lánh ăn trộm từ bầu trời đêm, ngặt tự cột trói, mà tri sở hữu cũng chỉ là ảo giác.
Em nói,
khi đột nhiên nghĩ mình bị bỏ rơi, liền thấy ngay cái ngập chìm trong mất mát. Hẫng, hụt, rồi sinh lo. Vì đã cố tình mở đôi mắt, gắng gượng, mà chẳng biết cách ngắm sóng này vọng sóng nọ, nên không làm sao bảo an tâm rằng, cõi trào dâng kia âu cũng vẫn chỉ một bề nước cả.
Em nói,
lần dò bước đi, cô độc nắm níu, tán nhiều tâm huyết, giẫm đạp thời gian, chỉ để kéo con thuyền gần lại, trên con đường nhung gai, lạc nơi cõi vô thường, mộng gieo hạt mầm vùng đất định, bởi ngong ngóng tìm chờ lăm lắm, nên đã vẫn hoàn đứa con côi nơi đất khách quê người...
Rồi, em nói,
có ba chữ, Giấc Mộng Hoa, đã vướng vào một mảng mây xám hồng trĩu nặng. Giấc mộng hoa, mà em đã đợi mỏi mòn nên đã chưa thấy... Đẹp lắm, những đóa hoa màu phù phiếm, mở ra cánh hồng vào quá trình rửa gột dục vọng. Lại chẳng nhẹ nhàng hơn một tia nắng hắt hiu trên giọt sương sớm, hiển hiện một kiếp đời không hơn gì bóng sáng mới lướt qua.
Khó lắm mới thế kia, nỡ nào để đáng tiếc một mộng hoa, rũ mãi vẫn chẳng rụng những cánh phù du sắc? Vấy tâm vùi vọng, em đã bấm lời run rủi viết ra.
Vậy nên, sân khấu lại mở màn. Diễn viên vẫn thay phận thân. Cỏ rạp dưới chân. Dòng sông khúc khích rảo cười, kẻ mỏi mòn mong ngóng chuyến đò ngang, hay người lái đò chở khách gót hồng sang bờ sen lặng, hoặc người chống cằm chiếu kiến những đợt sóng dâng...
Tóc hãy nguyên vọng tưởng thật dài, quấn quít rộn ràng giữa những chuyến du mộng...
Em nói,
giờ, em nâng vọng.
Vọng của tôi.
---
CC,
04/2024
36.
"Hãy thôi đi! Hãy hết đi! Hãy mát rười rượi đi! Lò hương trong ngôi miếu cổ đi! Một dải lụa trắng đi! Một niệm niệm muôn năm đi!"
(*)
Trầm Kha, mình mệt rồi. Trầm Kha, dừng lại thôi. Đừng kết luận. Đừng lý giải điều gì.
Bất cứ ông đồng bà cốt nào, Trầm Kha, trên khắp thế gian này, đều có một phương thức tâm lý giống nhau, với đàn bà họ sẽ bảo tiền kiếp là tiên nữ hay công chúa, với đàn ông họ sẽ bảo tiền kiếp là chiến binh, quan hay vua. Cậu có biết vì sao không?
Đừng, Trầm Kha, đừng nói với mình về tiền kiếp. Chuyện tiền kiếp, thật sự, mình không biết. Và khi mình chưa tỏ biết, mình không thể nói là mình tin hay chẳng tin.
Đức tin, Trầm Kha, là ý thức của một cá thể đặt niềm tin vào những gì mà tiềm thức người đó biết chắc là điều đó thiếu dữ kiện để hoàn toàn tin tưởng.
Trầm Kha, nếu một cái gì đã được biết chắc nó là như vậy, với bản chất của nó đã được trông thấy, khảo sát nhiều lần, thì người ta không còn cần đến có đức tin hay không có đức tin về cái đó cùng bản chất của nó nữa. Đức tin trở thành một khái niệm không thể thành lập.
Trầm Kha, không ai cuồng tín la hét rằng ngày mai mặt trời sẽ mọc. Họ biết chắc ngày mai nó sẽ mọc. Cuồng tín được thành lập trên cái mà bản thân cá thể ấy còn chưa thật thấy rõ, biết rõ, nhưng lại tưởng là mình biết rõ, thấy rõ.
Mình xa rời cuồng tín. Trầm Kha, mình chỉ hướng về sự hiểu cho rõ ràng, cho minh bạch, mọi sự thể nguồn cơn.
Và khi mà ảo tướng dần dần rạng tỏ bày. Cõi tưởng từ từ xây hiện thực. Độ mươi năm những tưởng đọc thông Tam Tạng Kinh. Hai mươi mấy xuân những tưởng đằm tâm vào khoa học. Quan sát, trầm ngẫm, tư duy, phân tích, tổng hợp, vấn nghi. Lại quan sát, lại suy tư, lại vấn nghi ... Tâm chấp nhận, khi bước vào quán sát phiền não kia, thì đớn đau là việc chẳng làm sao tránh được.
Nhưng, Trầm Kha, có quá nhiều điều vẫn chưa thể thấu thông.
Rồi thì, bất chợt đến, bất chợt đi. Bất chợt nhân duyên. Bất chợt khinh khi. Bất chợt, tất cả chẳng hơn gì, một giấc mộng như thị.
Trầm Kha, cậu ở giữa thực và hư. Mình cũng chẳng hơn chi. Buông xuôi các thái cực. Giữa hai dòng đối kháng, có một đường đi.
Nhưng mà, dầu có là như vậy, thì,
Trầm Kha,
có thật là,
tâm, tâm chẳng còn muốn gì thêm nữa?
°°°
(*) Thạch Sương Thiền Sư
CC
18/o5/2o14
XẾP
Bạch nguyệt quang, chiếu sáng ngả thế gian,
Tâm tội hối đường quẩn rối lưỡng nan.
Bạch nguyệt quang, soi luân hồi bàng bạc,
Nan xóa kiệt dòng lệ kiếp đôi hàng.
Bạch nguyệt quang, cô côi đẫm trái ngang,
Trong đáy nước mong manh một bóng vàng.
Bạch nguyệt quang, quán chiếu tỏ tâm can,
Định tuệ rơi tiếng giấc mộng than.
Bạch nguyệt quang,
Tỏa vang
Rạng.
Vĩnh biệt 20.o8.2o14
GIẤC MỘNG HOA xếp lại
CC
It's not the first time...
Duyên tận dẫn duyên tan,
Mãi nâng niu mãi mộng tướng
Tâm hoa tiễn biệt chàng(s)
Tạm biệt 3o.o4.2o24
CC