HOÀNG TỬ NHỎ
LE PETIT PRINCE
Tác giả: Antoine de Saint-Exupery
HOÀNG TỬ NHỎ
LE PETIT PRINCE
Tác giả: Antoine de Saint-Exupery
Cáo im lặng và chăm chú nhìn Hoàng tử nhỏ một lúc lâu :
- Nếu cậu vui lòng … xin hãy thuần hoá mình đi! - Cáo nói.
- Mình cũng muốn lắm, – Hoàng tử nhỏ trả lời - Nhưng mình không có nhiều thời gian. Mình có những người bạn để mà kiếm tìm và nhiều điều để mà biết hiểu.
- Người ta chỉ hiểu được những gì họ đã thuần hóa thôi - Cáo nói - Con người không còn thời gian để biết hiểu cái gì. Họ mua những vật được làm sẵn trong các cửa hàng. Nhưng chẳng có lấy một cửa hàng nào bán những người bạn, con người chẳng còn bạn nữa. Nếu cậu muốn có một người bạn, hãy thuần hóa mình đi!
- Vậy phải làm gì? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Phải thật kiên nhẫn - Cáo trả lời - Ban đầu cậu hãy ngồi hơi xa mình một chút, như thế, trên cỏ ấy. Mình sẽ đưa mắt liếc cậu và cậu sẽ chẳng nói gì. Ngôn ngữ là nguồn gốc của ngộ nhận. Rồi, từng ngày, cậu có thể ngồi gần mình hơn một chút...
Ngày hôm sau, Hoàng tử nhỏ quay lại.
- Sẽ tốt hơn khi cậu trở lại vào đúng giờ hôm trước - Cáo nói - Nếu cậu đến, chẳng hạn, lúc bốn giờ chiều, thì từ ba giờ mình đã cảm nghe hạnh phúc. Thời khắc càng trôi, mình càng hạnh phúc hơn. Đến bốn giờ, đã, mình đã thấy bồn chồn và lo lắng; mình sẽ khám phá ra cái giá của hạnh phúc! Nhưng nếu cậu đến vào bất cứ lúc nào, mình sẽ chẳng thể biết lúc nào để trang phục cho trái tim … Phải có nghi lễ chứ.
20 năm đã trôi qua
kể từ ngày tôi dịch Hoàng tử nhỏ lần đầu tiên, vào năm 2004
Bản dịch tôi cảm thấy hoàn thiện nhất là bản năm 2014
mà tôi xin đăng lại đây, vào năm 2024 , khi chàng tròn 80 tuổi
CC
LỜI NGƯỜI DỊCH
Le mot « traduire » vient du latin, « tra » - « ducere », ça veut dire: «conduire à travers », « faire paser » ou « franchir »
Anne Solange Noble đã viết :
Từ « phiên dịch » trong tiếng Pháp, xuất phát từ tiếng La-tinh, ghép bởi hai từ « tra » và « ducere »,
nó có nghĩa : « dẫn dắt để băng xuyên qua », hoặc « truyền chở để vượt qua » hay « nhảy vượt qua » .
Nhưng đúng là, quả khó tìm được một cách thức nào khác khả dĩ hơn, để không khỏi lặp lại một khuôn mẫu, khi chính thẳm sâu mình, tiếng nói ấy thật cũng rất muốn bắt đầu với những lời lẽ thế này:
Xin được thứ lỗi, vì đã không thẳng thắn ngay từ những trang đầu, rằng bản dịch này, về bản chất, chẳng phải một món quà, nó không để dành tặng cho một ai khác cả. Cũng không phải là một bản thảo dùng vào việc xuất bản, nên về hình thức, nó chẳng dựa vào khuôn phép chuyên môn.
Bản dịch này, thành thật thú nhận là, một phương thức phân tâm mang tính chất cá nhân, đã được dựa dùng để chạy chữa cho tự thân.
Cảm giác cùng chia sẻ một tác phẩm nghệ thuật hay văn học, với người khác, khiến người ta được an ủi rất nhiều, người ta cảm nghe bớt cô độc hơn, vì sự gần gũi trực diện về mặt nội tâm, không qua rào cản kiểu cách của vỏ bọc thân thể. Đó là lý do vì sao bản dịch này không để giữ kín cho riêng mình.
Nhưng, quan trọng hơn, nếu điều gì đó ở tác phẩm khiến bạn động lòng, cho dù là ở bất cứ phương diện tích cực hay tiêu cực nào, thì dựa vào kinh nghiệm có thể thẳng thắn nhận xét rằng: vì nó là một cầu nối với phần tiền ý thức rất riêng tư, của chính bạn và chỉ với mình bạn.
Thế là, nếu dịch hay đọc tác phẩm này, với thái độ thả lỏng mình một cách cẩn trọng, đôi khi, rất có thể, người ta đột nhiên nhận biết ra - điều mà không ai nói với họ, mà họ cũng khó diễn đạt nổi được với ai – ở đây với lối cách đồng hóa và phóng chiếu của nội tâm, đấy, rất giản dị, chỉ là lắng nghe, là quan sát, là nhận diện những phản ứng của tâm mình - chính phần cốt yếu còn chưa nhận thức tới trong sâu thẳm của tâm thức, cứ câm lặng thủ thỉ, đã hiện diện rõ ra.
Mà, làm cách nào thật hiểu được gì khác, nếu chưa hiểu nổi chính tự mình.
Thế cũng vẻ đủ rồi, tác phẩm, tác giả, cả một cách xuyên vượt băng qua, trong khả năng những gì biết hiểu đã được trao ra, đã có thể dừng lại chỗ này, để mà thư thả.
CC
24.01.2014
TẶNG LEON WERTH
Tôi cần được thứ lỗi bởi những trẻ em vì đã tặng cuốn sách này cho một người lớn. Tôi có một lý do nghiêm túc: người ấy là bạn tốt nhất mà tôi có được trong đời.
Lý do nữa là: người lớn này có thể thấu hiểu mọi điều, thậm chí cả những cuốn sách viết cho trẻ nhỏ.
Và lý do thứ ba của tôi là : người ấy sống tại nước Pháp, nơi đó người ấy đói và lạnh. Người ấy cần được vỗ về.
Nếu tất cả những lý do này vẫn chưa đủ đầy, tôi rất muốn tặng cuốn sách này cho đứa trẻ mà xưa kia người lớn ấy từng là. Tất cả những người lớn đều đã là trẻ con trước đó. (Nhưng hầu như chẳng ai nhớ cả). Thế là tôi phải sửa lại lời đề tặng của mình:
TẶNG LEON WERTH
Khi cậu là một đứa trẻ
A.DE S. – E,1944.
----------------
À Léon Werth.
Je demande pardon aux enfants d'avoir dédié ce livre à une grande personne. J'ai une excuse sérieuse : cette grande personne est le meilleur ami que j'ai au monde. J'ai une autre excuse : cette grande personne peut tout comprendre, même les livres pour enfants. J'ai une troisième excuse : cette grande personne habite la France où elle a faim et froid. Elle a besoin d'être consolée. Si toutes ces excuses ne suffisent pas, je veux bien dédier ce livre à l'enfant qu'a été autrefois cette grande personne. Toutes les grandes personnes ont d'abord été des enfants. (Mais peu d'entre elles s'en souviennent.) Je corrige donc ma dédicace :
À Léon Werth
quand il était petit garçon
CHƯƠNG 1
Hồi lên sáu tôi đã nhìn thấy, một lần, một bức tranh tuyệt đẹp, trong cuốn sách nói về rừng hoang với tựa đề "Những câu chuyện có thật". Trong cuốn sách có vẽ một con trăn thật to đang nuốt chửng một con ác thú. Đây là bản sao của bức tranh đó:
Cuốn sách viết: "Con trăn nuốt chửng cả con mồi, không hề nhai. Sau đó nó không thể nhúc nhích nữa và ngủ lì sáu tháng liền để tiêu hoá con mồi."
Từ đó tôi thường nghĩ đến các cuộc phiêu lưu trong rừng rậm, và đến lượt mình, tôi đã hoàn thành, với một cây bút chì màu, bản phác thảo đầu tiên. Bức vẽ số một của tôi. Nó như thế này...
Tôi đem khoe kiệt tác của mình với những người lớn và hỏi họ rằng nó có làm họ kinh hãi không.
Họ đã trả lời: "Sao lại phải sợ một cái mũ cơ chứ?"
Bức vẽ của tôi không vẽ một cái mũ. Đó là một con trăn đang tiêu hoá một con voi. Thế là tôi đành phải vẽ phía trong con trăn, để khiến cho người lớn có cơ hiểu được. Người lớn lúc nào cũng cần phải giải thích.
Bức vẽ thứ hai của tôi như thế này:
Những người lớn lại khuyên tôi nên từ bỏ các bức vẽ về con trăn cả trong lẫn ngoài, thay vào đó nên chú tâm tới địa lý, lịch sử, toán học và ngữ pháp. Bởi thế mà tôi đã bỏ dở, vào năm lên sáu, sự nghiệp hội họa cao quý ấy. Tôi đã bị nản lòng vì sự thất bại của bản thảo số một và số hai của mình. Những người lớn chẳng bao giờ tự hiểu được cái gì, và thật là mệt, cho trẻ con, khi luôn phải giải thích đi giải thích lại cho họ.
Thế là tôi đành chọn nghề khác và tôi học lái máy bay. Tôi đã bay khắp thế giới mỗi nơi một tí. Và môn địa lý, đúng như vậy, đã rất có ích cho tôi. Tôi có thể phân biệt ngay, mà chỉ liếc qua một cái, Trung Quốc với Arizona. Điều này thật sự hữu dụng, khi ta lạc đường trong đêm tối.
Tôi cũng đã có, trong đời mình, hàng tá lần tiếp xúc với hàng tá những con người nghiêm chỉnh. Tôi đã sống rất lâu với nhiều người lớn. Tôi đã nhìn họ rất gần. Nhưng e rằng điều ấy chẳng làm tôi thay đổi quan tư về họ.
Mỗi lúc gặp một người lớn có vẻ sáng sủa, tôi lại thử họ bằng bức phác thảo số một mà tôi luôn mang theo. Tôi muốn biết liệu ông hoặc bà ấy có thực sự hiểu nó không. Nhưng câu trả lời luôn là: "Đấy là một cái mũ". Thế là tôi chẳng đề cập tới trăn rắn, rừng hoang, hay các vì sao nữa. Tôi tự hạ mình ngang tầm của họ. Tôi bàn luận về bài bạc, chơi gôn, chính trị và những cái cà-vạt. Và những người lớn kia lại cảm thấy hài lòng khi được làm quen với một người cũng biết điều như vậy.
CHƯƠNG 2
Tôi đã sống cô đơn như vậy, chẳng có ai để chuyện trò thực sự, cho đến khi máy bay của tôi bị hỏng giữa sa mạc Sahara, cách đây sáu năm. Có cái gì đó trong động cơ của tôi bị gãy. Và tôi chỉ đi một mình không có hành khách cũng chẳng có thợ máy, tôi phải một mình bắt đầu cuộc sửa chữa khó khăn. Đấy là vấn đề sống chết với tôi. Tôi chỉ có đủ nước để uống trong nhiều nhất là tám ngày.
Đêm đầu tiên, vậy là, tôi phải ngủ trên cát ở cách xa nơi người ở hàng ngàn dặm. Lúc đó tôi còn cô độc hơn cả một kẻ đắm tàu trên chiếc bè lên đênh giữa biển khơi. Bạn chắc sẽ tưởng tượng ra nỗi kinh ngạc của tôi, vào lúc mờ sáng, khi một giọng nói nhỏ nhẹ ngộ nghĩnh đánh thức tôi dậy. Cái giọng ấy nói:
- Nếu ông vui lòng… xin vẽ hộ tôi một con cừu!
- Cái gì?
- Xin vẽ hộ tôi một con cừu…
Tôi nhảy dựng lên như bị sét đánh. Tôi dụi mắt thật lâu. Tôi đã nhìn thật kỹ. Và tôi thấy một cậu bé thật khác thường đang nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. Đây là bức chân dung đẹp nhất của cậu ấy mà về sau tôi vẽ được. Nhưng bức vẽ của tôi chắc là kém đẹp hơn người mẫu nhiều. Không phải lỗi tại tôi. Tôi đã bị người lớn làm cho nản lòng trong sự nghiệp hội họa từ hồi sáu tuổi, và tôi có bao giờ học vẽ cái gì ngoài những con trăn kín và mở đâu.
Vậy là tôi nhìn cái sự hiển hiện đó với đôi mắt tròn xoe vì kinh ngạc. Xin nhớ là lúc ấy tôi đang ở cách mọi chỗ có người hàng ngàn dặm. Thế mà cậu bé của tôi trông chẳng giống như bị lạc đường, chẳng hề mệt lả, chẳng hề đói, chẳng hề khát, hay sợ hãi gì. Cậu chẳng có vẻ một cậu bé lạc giữa sa mạc, cách nơi người ở cả ngàn dặm. Khi mở được miệng, tôi hỏi cậu:
- Nhưng… cậu làm gì ở đây?
Thế là cậu lặp lại câu nói lúc nãy, thật nhẹ nhàng, như một điều rất đỗi quan trọng:
- Nếu ông vui lòng… xin vẽ hộ tôi một con cừu…
Khi mà sự bí ẩn quá lớn, người ta không dám chẳng vâng lời. Dù điều này thật vô lý, khi tôi đang ở cách xa nơi người ở cả ngàn dặm và đang bị nguy đến tính mạng, tôi rút trong túi ra một cây bút và một mảnh giấy. Nhưng tôi sực nhớ rằng mình đã chỉ học địa lý, lịch sử, toán học và văn phạm, tôi nói với cậu, có vẻ hơi khó chịu, rằng tôi không biết vẽ. Cậu trả lời:
- Không sao đâu. Xin vẽ hộ tôi một con cừu.
Vì tôi chưa bao giờ vẽ một con cừu nào cả nên tôi vẽ lại cho cậu một trong hai bức tranh mà tôi có thể vẽ. Đó là hình con trăn kín.
Và tôi sững sờ khi nghe cậu trả lời:
- Không! Không! Tôi không muốn một con voi trong bụng một con trăn đâu. Con trăn nguy hiểm lắm, còn con voi thì quá kềnh càng. Chỗ tôi bé lắm. Tôi cần một con cừu. Xin hãy vẽ cho tôi một con cừu!
Thế là tôi vẽ.
Cậu nhìn chăm chú, rồi nói:
- Không! Con này ốm quá. Hay vẽ con khác đi.
Tôi vẽ.
Cậu bé của tôi cười nhẹ, giọng khoan dung:
- Ông thấy đấy… đây không phải con cừu, đây là dê. Nó có sừng…
Tôi lại vẽ lại lần nữa. Nhưng bức này cũng bị từ chối như các bức trước.
- Con này già quá. Tôi muốn một con cừu sống thật lâu.
Bấy giờ tôi hết kiên nhẫn, bởi sốt ruột muốn bắt đầu tháo máy, tôi vẽ nguệch ngoạc bức vẽ này đây:
Và tôi nói bừa:
- Đây là cái thùng. Con cừu cậu muốn ở trong ấy đấy.
Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy mặt vị quan tòa nhỏ của tôi sáng rỡ lên:
- Đúng là điều mà tôi muốn đấy! Ông nghĩ có cần nhiều cỏ cho con cừu này không?
- Sao vậy?
- Vì chỗ tôi bé lắm…
- Chắc là đủ. Tôi vẽ cho cậu một con cừu nhỏ xíu ấy mà.
Cậu cúi đầu xuống bức vẽ:
- Không nhỏ lắm đâu… Kìa! Nó đã ngủ rồi…
Và như thế đấy, tôi đã làm quen với Hoàng tử nhỏ.
CHƯƠNG 3
Phải rất lâu tôi mới hiểu được cậu từ đâu đến. Hoàng tử nhỏ, vốn đặt nhiều câu hỏi cho tôi, lại dường như không bao giờ chú ý nghe tôi hỏi. Chính là những lời ngẫu nhiên buột ra, dần dần, tiết lộ cho tôi tất cả. Như thế, khi lần đầu nhìn thấy máy bay của tôi (tôi sẽ không vẽ chiếc máy bay, bởi bức vẽ đó quá phức tạp với tôi), cậu hỏi:
- Cái vật kia là gì?
- Nó không phải là cái vật đâu. Nó bay được đấy. Đó là một cái máy bay. Cái máy bay của tôi.
Và tôi đã rất đỗi tự hào khi dạy cậu là tôi có thể bay.
Thế là cậu liền kêu lên:
- Sao cơ ! Ông từ trên trời rơi xuống ư !
- Đúng vậy – khiêm tốn tôi đáp lời.
- Ái chà! Cái này ngộ đấy!
Rồi Hoàng từ nhỏ bật tiếng cười lanh lảnh đáng yêu nhưng lại làm tôi cảm nghe rát điếng. Tôi muốn ai cũng phải đánh giá nghiêm túc tai nạn của mình. Rồi cậu nói thêm:
- Thế ra, ông cũng vậy ông tới từ bầu trời! Ông ở hành tinh nào?
Trong tôi lập tức lóe lên một tia sáng, về xuất hiện bí ẩn của cậu, nên tôi hỏi đột ngột ngay:
- Cậu đến từ một hành tinh khác à?
Nhưng cậu không trả lời. Cậu khẽ lắc đầu nhìn máy bay của tôi:
- Mà đúng là, ngồi trên cái đó, thì ông cũng chẳng thể tới từ một nơi xa lắm đâu ...
Và cậu đắm mình trong sự mơ mộng thật dài. Rồi, móc con cừu tôi vẽ ra khỏi túi, cậu mê mải ngắm kho báu này.
Hãy tưởng tượng xem tôi đã bị kích động dường nào bởi lời thổ lộ nửa vời về "các hành tinh khác" ấy. Thế là tôi cố tìm hiểu rõ hơn:
- Cậu từ đâu đến, cậu bé của tôi ơi? “Nơi tôi sống” là ở đâu thế? Cậu muốn mang con cừu của tôi đi đâu vậy?
Cậu trả lời tôi sau một lát im lặng trầm ngâm:
- Thật là tốt, với cái hòm mà ông cho tôi, thế là, ban đêm, con cừu có thể dùng làm nhà.
- Phải đấy. Và nếu cậu ngoan, tôi sẽ còn vẽ cho cậu một sợi dây để buộc nó vào ban ngày. Và một cái cọc nữa.
Gợi ý đó dường như gây sốc Hoàng tử nhỏ:
- Buộc nó lại ư? Ý tưởng gì mà kỳ khôi vậy!
- Nhưng nếu không buộc nó lại, nó sẽ đi lung tung, và sẽ lạc mất ...
Cậu bạn nhỏ của tôi lại bật phá lên cười:
- Mà ông muốn nó đi đâu cơ !
- Bất cứ đâu. Cứ đi thẳng tới trước mặt ...
Bấy giờ Hoàng tử nhỏ nghiêm nghị ghi nhận lại:
- Không hề gì đâu, nơi đó thật sự nhỏ bé lắm, chỗ tôi sống ấy mà!
Rồi, với một chút ưu sầu, có lẽ, cậu nói thêm:
- Thẳng trước mình người ta nào đi được bao xa ... (*)
(*) Nguyên văn : Droit devant soi on ne peut pas bien loin
CHƯƠNG 4
Vậy là tôi đã biết được điều thứ hai thật quan trọng: rằng hành tinh quê hương cậu chẳng lớn hơn một ngôi nhà là bao !
Điều ấy không làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Tôi vẫn biết ngoài những hành tinh lớn như Trái Đất, Sao Kim, Sao Hoả, Sao Thủy, mà người ta đặt tên cho, có hàng trăm hành tinh khác mà đôi khi bé đến nỗi người ta chỉ thấy trong kính viễn vọng một cách khó khăn. Khi một nhà thiên văn khám phá ra một trong số ấy, ông ta chỉ đặt tên bằng cách gán cho nó một con số. Ông gọi nó, giả như, là "tiểu hành tinh 325".
Tôi có những lý do đúng đắn để cho rằng hành tinh từ đó Hoàng tử nhỏ đến là tiểu hành tinh B612. Tiểu hành tinh đó chỉ được trông thấy một lần trong kính viễn vọng, vào năm 1909, do một nhà thiên văn Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông này thế là đã thực hiện một buổi thuyết trình lớn về phát hiện của mình tại một Hội nghị Quốc tế về Thiên văn. Nhưng chẳng ai tin ông do bởi bộ áo quần ông mặc. Người lớn là như vậy mà.
Thật may mắn cho thanh danh của tiểu tinh cầu B612, một nhà độc tài Thổ Nhĩ Kỳ đã buộc dân mình, ai không tuân theo sẽ chịu tội chết, phải mặc âu phục.
Nhà thiên văn thuyết trình lại vào năm 1920, trong bộ quần áo rất trang trọng. Và lần này tất cả mọi người đều đồng ý với ông ta.
Nếu tôi kể với các bạn tỉ mỉ về tiểu tinh cầu B612 và nếu tôi tiết lộ với các bạn số hiệu của nó, ấy là do những người lớn. Những người lớn rất thích các con số. Khi bạn nói với họ về một người bạn mới, không bao giờ họ hỏi bạn về những điều cốt yếu. Họ không bao giờ hỏi bạn: "Giọng nói của anh ta thế nào? Anh ta thích chơi trò gì? Anh ta có sưu tầm bươm bướm không?" Mà sẽ chỉ hỏi bạn: "Anh ta bao nhiêu tuổi? Anh ta có mấy anh em? Anh ta cân nặng bao nhiêu? Bố anh ta kiếm được bao nhiêu tiền?" Để rồi họ cho vậy là đã biết người ấy rồi. Nếu bạn nói với những người lớn: "Tôi đã thấy một ngôi nhà tuyệt đẹp được xây bằng gạch màu hồng, với hoa phong lữ bên cửa sổ và chim bồ câu trên mái ...", họ chẳng thế nào hình dung nổi ngôi nhà ấy đâu. Cần phải nói với họ: "Tôi đã thấy một ngôi nhà trăm nghìn francs". Họ sẽ kêu ngay: " Nó hẳn là xinh đẹp lắm!"
Bởi vậy, nếu bạn bảo họ: "Bằng chứng Hoàng tử nhỏ tồn tại là cậu ấy đẹp lắm, cậu cười, và cậu thích có một con cừu. Khi ai đó muốn có một con cừu, chứng tỏ người ấy tồn tại chứ", họ sẽ nhún đôi vai và đối bạn như trẻ con ! Nhưng nếu bạn nói với họ: "Hành tinh mà từ đó cậu ấy đến là tiểu tinh cầu B612", thì họ sẽ bị thuyết phục ngay, và sẽ để bạn yên mà không vặn hỏi gì nữa. Họ là như vậy mà. Không nên trách cứ họ. Trẻ con cần hết sức khoan dung với những người lớn.
Nhưng, dĩ nhiên, chúng ta những người hiểu đời, chúng ta chẳng màng tới những con số ! Tôi đã rất thích bắt đầu câu chuyện này như kiểu một câu chuyện thần tiên. Tôi đã rất thích nói:
" Ngày xửa ngày xưa, có một hoàng tử nhỏ sống trên một tinh cầu chẳng lớn hơn cậu là bao, và cậu ấy cần một người bạn..." Đối với những ai hiểu đời, kể như vậy có vẻ đã là quá thật.
Bởi tôi không muốn người ta đọc cuốn sách của mình một cách hời hợt.
Tôi đã cảm nghe buồn tủi biết bao khi kể lại những hồi ức này. Sáu năm đã qua từ khi cậu bạn của tôi đi mất với con cừu của cậu. Nếu tôi cố gắng tả lại chuyện ở đây, chính là để không lãng quên cậu. Thật là buồn khi quên một người bạn. Cả thể giới đã chẳng có được một người bạn. Và tôi có lẽ sắp trở thành người lớn, chẳng còn quan tâm gì ngoài các con số. Đó cũng chính là lí do mà tôi lại mua một hộp màu nước và những cây bút chì. Trở lại vẽ vời thật là khó, vào tuổi tôi bây giờ, khi mà người ta chưa hề nỗ lực nào khác ngoài con trăn kín với con trăn mở, từ hồi lên sáu!
Tôi sẽ cố thử, hẳn nhiền rồi, họa những bức chân dung càng giống càng hay. Nhưng tôi không được mấy chút thành công. Một bức tạm được, bức sau lại không còn giống bức trước nữa. Về tầm vóc tôi cũng khá sai. Chỗ này Hoàng tử nhỏ quá lớn. Chỗ kia cậu lại quá nhỏ. Và tôi cũng không chắc về màu sắc trang phục cậu. Nên là tôi cứ lần mò thế này rồi thế kia, tàm tạm còn hơn không. Tôi cũng đã mắc sai lầm trong một vài chi tiết khá quan trọng. Nhưng việc này, tôi cần được thứ lỗi. Bạn tôi chẳng bao giờ đưa ra lời giải thích nào. Có lẽ cậu nghĩ tôi cũng giống như cậu. Nhưng tôi, khốn khổ thay, tôi không biết cách nhìn thấy những con cừu xuyên qua mấy cái hòm. Tôi dường như hơi giống những người lớn rồi. Tôi đang phải già đi.
CHƯƠNG 5
Mỗi ngày tôi lại biết thêm điều gì đó về hành tinh ấy, về sự ra đi, về chuyến du hành. Câu chuyện đến êm đềm, tình cờ theo những dòng suy tưởng. Cũng như vậy, vào ngày thứ ba, tôi đã biết về tấn thảm kịch của những cây Baobab.
Lần này cũng nhờ con cừu, bởi bất ngờ Hoàng tử nhỏ hỏi tôi, như thể vừa có một nghi ngờ nghiêm trọng nào đấy:
- Có thật là, phải không, loài cừu chỉ ăn những bụi cây nhỏ?
- Phải rồi. Thật vậy.
- À ! Tôi mừng quá!
Tôi không hiểu sao chuyện loài cừu ăn những bụi cây con lại quan trọng đến vậy. Nhưng Hoàng tử nhỏ đã nói thêm:
- Cho nên chúng ăn cả những cây Baobab?
Tôi xác định lại với Hoàng tử nhỏ rằng Baobab không phải là thứ bụi cây nhỏ, mà là loại cây to như những nhà thờ và thậm chí, nếu cậu mang theo cả đàn voi, chúng cũng chẳng làm lung lay nổi chỉ một cây Baobab.
Ý tưởng về đàn voi làm Hoàng tử nhỏ bật cười:
- Phải chồng con này lên con kia chứ ...
Rồi cậu nhận xét thêm đầy sự hiểu biết:
- Bọn Baobab, trước khi lớn, cũng bắt đầu từ bé tẻo teo.
- Điều này thì chính xác rồi ! Nhưng sao cậu lại muốn lũ cừu kia ăn những cây Baobab nhỏ?
Cậu trả lời tôi: "Đấy! Thấy chưa!" như thể chuyện đó hẳn hiển nhiên. Và tôi phải bắt trí óc làm việc dữ dội mới tự hiểu vấn đề nổi.
Thì ra, trên hành tinh của Hoàng tử nhỏ, có, cũng như trên mọi tinh cầu, những loại cây lợi và những loại cây hại. Nên có hạt tốt của cây lợi và hạt xấu của cây hại. Nhưng hạt giống lại vô hình. Chúng ngủ trong phần bí mật của lòng đất cho đến khi một hạt nào trong chúng nổi hứng muốn thức dậy. Thế là nó vươn vai, rụt rè nhú lên hướng về phía mặt trời một nhánh con hiền lành xinh đẹp. Nếu là chồi của cây cải củ hay một nhánh hoa hồng, ta có thể để nó mọc sao tuỳ ý. Nhưng nếu là một mầm cây có hại, ta phải nhổ lập tức, ngay vừa khi nó được nhận diện ra. Mà cũng có những hạt giống kinh khủng đó trên hành tinh của Hoàng tử nhỏ... chúng là những hạt giống cây Baobab. Đất tinh cầu bị chúng tàn phá. Mà một cây Baobab, nếu can thiệp muộn màng, ta sẽ chẳng thể nào nhổ bỏ chúng được. Baobab sẽ mọc tràn khắp hành tinh. Rễ của chúng sẽ xói đục khắp nơi. Và nếu tinh cầu mà quá bé nhỏ, và cây Baobab thì lại quá nhiều, hành tinh đó rồi sẽ vỡ tung.
"Đây là một vấn đề nguyên tắc” - Hoàng tử nhỏ về sau nói với tôi - “Sau khi làm vệ sinh buổi sáng xong, ta cũng phải vệ sinh thật kỹ cho hành tinh. Phải nhổ bọn Baobab đều đặn ngay khi ta vừa phân biệt được chúng với nhánh hoa hồng vì khi còn non chúng trông tương tự nhau. Đó là việc chán ngắt, nhưng lại rất dễ."
Và một ngày Hoàng tử nhỏ khuyên tôi cố sức vẽ một bức tranh đẹp, để các em nhỏ ở quê hương tôi ghi nhớ chuyện này. " Nếu họ đi xa một ngày kia, » - Cậu nói với tôi – « thông tin này có thể hữu dụng cho họ. Đôi khi cũng chẳng hại gì khi hoãn lại một đôi việc. Nhưng, trong trường hợp là những cây Baobab, thì trì hoãn bao giờ cũng là thảm hoạ. Tôi có biết một tinh cầu, cư ngụ bởi một gã lười biếng. Hắn đã bỏ mặc ba cái cây con ..."
Thế là, theo sự chỉ dẫn của Hoàng tử nhỏ, tôi đã vẽ tinh cầu đó như thế này đây. Tôi tuyệt không phải loại người hay lên mặt dạy đời. Nhưng cái họa Baobab còn ít người biết quá, mà nguy cơ lại rất đáng kể với những ai lạc vào một tiểu hành tinh như thế kia, đến nỗi, chỉ một lần thôi, tôi phá vỡ nguyên tắc của mình. Tôi xin nói: "Hỡi các em! Hãy coi chừng bọn Baobab!" Ấy là để cảnh báo các bạn tôi về sự nguy hiểm mà họ lâu nay dù vẫn cận kề, cũng như chính tôi, mà không hề hay biết, nên tôi đã cố sức thật nhiều để vẽ bức tranh này. Bài học mà tôi đưa ra rất xứng công.
Có lẽ bạn sẽ tự hỏi: Tại sao không có, trong cuốn sách này, một bức vẽ nào vĩ đại hơn hình họa những cây Baobab? Câu trả lời đơn giản thôi: tôi có thử vẽ nhưng đã không thành công. Khi vẽ những cây Baobab, tôi đã bị thúc giục bởi cảm giác nguy ngập.
CHƯƠNG 6
Ôi! Hoàng tử nhỏ, tôi đã hiểu, dần dà, như vậy đó, cuộc sống u sầu của cậu. Bao lâu nay cậu chỉ giải khuây bằng cảnh dịu ngọt của những hoàng hôn. Tôi chỉ biết được điều mới mẻ này, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi cậu bảo tôi:
- Tôi rất thích cảnh hoàng hôn. Ta đi ngắm mặt trời lặn đi...
- Nhưng cần phải đợi chứ ...
- Đợi gì cơ?
- Đợi mặt trời lặn ấy.
Thoạt nhiên cậu có vẻ kinh ngạc, sau rồi cậu tự cười mình. Và cậu nói với tôi:
- Tôi cứ nghĩ mình còn đang ở nhà !
Thế đấy. Khi là buổi trưa ở nước Mỹ, mặt trời, ai cũng biết là, đang lặn ở nước Pháp. Giá mà chỉ cần đi một phút là đến nước Pháp để nhìn ngắm cảnh hoàng hôn. Thật không may là nước Pháp ở quá xa. Nhưng, trên hành tinh nhỏ xíu của cậu, chỉ cần dịch ghế vài bước. Và bất cứ khi nào thích là cậu có thể nhìn thấy những tia sáng tắt dần ...
- Có ngày, tôi nhìn mặt trời lặn bốn mươi bốn lần!
Và một chút sau cậu nói thêm :
- Ông biết đấy... khi ta thật buồn ta thích cảnh hoàng hôn...
- Thế cái ngày cậu nhìn mặt trời lặn đến bốn mươi bốn lần ấy, có phải cậu buồn quá không?
Nhưng Hoàng tử nhỏ đã không trả lời.
CHƯƠNG 7
Vào ngày thứ năm, vẫn lại nhờ con cừu, tôi khám phá được điều bí mật trong cuộc đời Hoàng tử nhỏ. Cậu thẳng thừng hỏi tôi, chẳng mào đầu, như thể đó là kết quả của một vấn đề được âm thầm suy nghĩ từ lâu:
- Một con cừu, nếu nó ăn cây non, tất nó cũng ăn cả hoa chứ?
- Cừu ăn tất cả những gì nó gặp.
- Thậm chí cả những bông hoa có gai ư?
- Phải. Kể cả những bông hoa có gai.
- Thế thì những cái gai, chúng dùng để làm gì?
Tôi không biết. Tôi bấy giờ đang rất bận tháo chiếc đinh ốc vặn quá chặt ở động cơ của mình. Tôi đã rất lo lắng vì thấy máy bay có vẻ hỏng nặng, còn nước uống cạn nhanh gây nỗi sợ về điều tệ hại nhất có thể sẽ xảy ra.
- Những cái gai, chúng dùng để làm gì?
Hoàng tử nhỏ không bao giờ chịu bỏ câu hỏi nào, một khi đã nêu ra. Tôi đang bị cáu tiết bởi cái đinh ốc và tôi trả lời mà chẳng nghĩ gì:
- Gai, chẳng dùng được vào việc gì, chúng thể hiện tính độc ác nguyên thủy của những loài hoa thôi!
- Ôi !
Nhưng sau một thoáng im lặng cậu ném lại tôi, một loại uất hiềm:
- Tôi không tin! Loài hoa yếu đuối lắm. Chúng quả ngây thơ. Chúng tự trấn an như thể mình cứng cỏi. Chúng cả tin rằng mình ghê gớm thật với những cái gai...
Tôi không trả lời gì. Lúc ấy tôi đang tự nhủ: "Cái đinh ốc kia mi mà còn ngoan cố, ta bổ liền một búa tan tành." Hoàng tử nhỏ một lần nữa làm sao nhãng dòng suy nghĩ của tôi:
- Và ông, chắc ông cũng tin rằng những bông hoa...
- Không! Không! Tôi không tin tưởng gì cả. Tôi chỉ trả lời đại thế thôi. Tôi đang rất bận, tôi ấy, với những việc hệ trọng đây !
Cậu rất đỗi sửng sốt ngó tôi:
- Những việc hệ trọng ư !
Cậu nhìn tôi, búa trong tay, mấy ngón đen thui toàn dầu máy, xiết chặt một vật mà xem ra với cậu quả rất xấu xí.
- Ông nói như những người lớn ấy!
Điều ấy khiến tôi hơi xấu hổ. Nhưng, không thương xót, cậu nói thêm:
- Ông lẫn lộn hết... ông xáo trộn tất cả mọi thứ lên!
Cậu đang thực sự rất uất giận. Cậu xõa trút vào gió mái tóc thật vàng :
- Tôi biết một hành tinh nơi có một ông nọ mặt mũi đỏ gay. Ông này chưa từng ngửi hương dầu chỉ một bông hoa. Ông này không bao giờ nhìn ngắm dầu chỉ một vì sao. Ông này cũng chưa bao giờ yêu dầu chỉ một người. Ông ta chẳng làm gì khác ngoài những bài tính cộng. Và suốt ngày ông ta cứ lặp đi lặp lại giống như ông bây giờ: "Tôi là người nghiêm túc! Tôi là người nghiêm túc!", và điều đó bơm phồng cái vênh vang kiêu ngạo. Nhưng thế đâu có phải là người, mà vốn chỉ là một cái nấm !
- Một cái gì cơ?
- Một cái nấm!
Hoàng tử nhỏ lúc này đã tái xanh vì giận:
- Những hàng triệu năm nay hoa làm ra gai. Cũng hàng triệu năm qua cừu vẫn cứ ăn hoa. Vậy mà không đủ nghiêm túc để tìm hiểu xem vì sao loài hoa hoài vất vả nuôi lớn dường ấy những cái gai vô tích sự ư? Chẳng hệ trọng gì cuộc chiến giữa cừu và hoa sao? Điều đó không đúng đắn hơn, không quan trọng hơn những bài tính cộng của quý ông to tướng mặt mũi đỏ gay kia à? Và nếu như tôi biết được, tôi ấy, một bông hoa duy nhất trên đời, không xuất hiện ở nơi đâu khác, ngoài hành tinh của tôi, sẽ có thể bị một con cừu nhỏ huỷ hoại chỉ bằng một cái táp, như thế, vào một buổi sáng nào đó, mà không hề biết là nó vừa làm gì, chuyện đó không quan trọng sao!
Cậu đỏ mặt, rồi lại tiếp tục:
- Nếu có ai đó yêu một bông hoa duy nhất trong hàng triệu triệu ngôi sao kia, thì chỉ cần ngắm những vì sao thôi cũng đủ khiến chàng hạnh phúc. Vì chàng nghĩ: "Đoá hoa của mình đang ở đâu đó trên kia..." Nhưng nếu con cừu ăn mất nàng hoa, thì đối với chàng, thình lình, cả trời sao sẽ liền tắt lịm! Và chuyện đó không quan trọng sao!
Hoàng tử nhỏ nghẹn lời. Thốt nhiên cậu bật khóc. Màn đêm đã buông. Tôi cũng bỏ đồ nghề. Tôi không còn quan tâm đến búa, đinh ốc, cái khát hay cái chết nữa. Có, trên một ngôi sao, ở một hành tinh, của tôi, Trái đất, một Hoàng tử nhỏ đang cần được an ủi! Tôi ôm cậu vào lòng. Tôi ru cậu dịu dàng. Tôi nói với cậu: « Đoá hoa mà cậu yêu không bị nguy hiểm đâu... Tôi sẽ vẽ một cái rọ mõm, cho con cừu... Tôi sẽ vẽ một ván chắn cho nàng hoa. Tôi... "
Tôi thật sự không biết nói thế nào với cậu. Tôi cảm thấy quá lúng túng vụng về. Tôi không biết làm sao với tới được cậu, đuổi kịp được cậu... Nó thật quá bí ẩn, thế giới của nước mắt …
CHƯƠNG 8
Tôi đã được biết nhiều hơn về nàng hoa ấy thật nhanh. Vẫn thường có, trên tinh cầu của Hoàng tử nhỏ, những bông hoa rất giản đơn, điểm tô chỉ bằng một vòng cánh, chẳng chiếm bao nhiêu chỗ, mà cũng chẳng làm phiền ai. Chúng hiện ra vào rạng mai trong cỏ, rồi sớm héo tàn vào mỗi đầu đêm. Nhưng một ngày kia nhú lên, hạt giống bay tới từ nơi nào không rõ, và Hoàng tử nhỏ đã theo dõi rất cận kề cái nhành non không giống bất cứ mầm cây nào khác kia. Biết đâu là một loại Baobab mới thì sao. Nhưng cây nhỏ chẳng mấy chốc ngừng cao, và bắt đầu sửa soạn ra nụ. Hoàng tử nhỏ, chứng kiến cảnh nụ lớn bày biện, cảm thấy rõ ràng từ đó sẽ hiện ra một thứ diệu kỳ, nhưng đóa hoa vẫn không ngừng điểm trang, nấp kín trong căn buồng xanh thắm. Nàng còn đắn đo lựa là màu sắc. Hoa chậm rãi ướm vào trang phục mặc, cẩn thận xếp sắp ngay ngắn từng cánh hoa. Nàng không muốn nhàu nát như mấy ả anh túc mà bước ra. Nàng chỉ muốn xuất hiện trong vẻ đẹp lộng lẫy sắc rực. À ra ! Đúng vậy. Nàng thật điệu đàng! Buổi điểm trang huyền bí kéo dài ngày qua ngày. Và để rồi vào một sớm mai, vừa đúng thời tia mặt trời hửng rạng, nàng hoa ấy lộ bày.
Và nàng, vốn đã công phu cẩn trọng dường này, ngáp dài mà nói:
- A! Em chỉ chực mới vừa thức dậy... Xin chàng hãy thứ lỗi cho em... Tóc tai em còn bù rối thế này...
Hoàng tử nhỏ, thế ra, không nén nổi sự ngưỡng mộ của mình:
- Ồ nàng mới đẹp làm sao!
- Thật vậy ư – Hoa trả lời dịu dàng - Và em cùng sinh ra với vầng dương...
Hoàng tử nhỏ đoán ngay nàng hoa này không mấy gì kiêm tốn, nhưng nàng hoa quyến rũ quá mà!
- Đúng thời rồi, em nghĩ là, đã đến giờ điểm tâm - Một thoáng sau nàng liền nói thêm – Liệu rằng chàng có lòng tốt mà nghĩ tới em không...
Và Hoàng tử nhỏ, đầy ngượng ngùng, cuống lên đi lấy ngay một thùng nước mát, mà phục tưới cho nàng.
Như vậy đấy, bông hoa nọ đã nhanh chóng day dứt cậu bằng thói kiêu kỳ hơi bóng gió của mình. Một lần, chẳng hạn, trong lúc kể về bốn cái gai, nàng nói với Hoàng tử nhỏ:
- Chúng có thể tới đây, bọn hổ, với móng vuốt của chúng ấy!
- Không có hổ trên hành tinh tôi – Đã bác bẻ ngay, hoàng tử nhỏ - Vả chăng loài hổ không ăn thảo cỏ.
- Em nào có phải thảo cỏ đâu – Ngọt dịu trả lời lại, nàng hoa.
- Thứ lỗi cho tôi...
- Em chẳng sợ gì bọn hổ cả, nhưng em khiếp hãi gió lùa lắm. Chàng không có tấm chắn gió nào ư?
"Khiếp sợ gió lùa ... thế thật không may, đối với một cái cây » - Hoàng tử nhỏ nhận xét - “ Đóa hoa này quả nhiên là phức tạp..."
- Chiều tối, chàng hãy đặt em trong bầu kính nhé. Chỗ chàng lạnh lẽo ghê. Thiếu tiện nghi quá. Nơi mà em tới ....
Nhưng nàng chợt im bặt. Nàng đến đây lúc hãy còn là hạt. Nàng chẳng có cách gì biết về thế giới khác. Ngượng nghịu vì đã trót để lộ lời dối gian một cách ngây ngô thế, nàng húng hắng ho hai ba lượt, để đẩy Hoàng tử nhỏ vào lỗi của mình :
- Cái bình phong ?...
- Tôi đã định đi lấy thì nàng bắt đầu nói!
Thế là nàng cố tình ho mạnh hơn hòng bắt cậu dầu chi cũng cảm nghe ân hận.
Nên chi Hoàng tử nhỏ, dẫu tình yêu có được ưu tiên thật hơn, đã nhanh chóng nghi ngại nàng hoa. Cậu thấy nghiêm túc cả những lời vẩn vơ, và trở nên thật buồn khổ quá.
"Đáng ra tôi không được nghe nàng” - Một hôm cậu tâm sự với tôi – “Không bao giờ nên nghe những đóa hoa. Chỉ nên ngắm nhìn và thưởng thức hương thơm của họ. Nàng hoa tôi tỏa hương khắp tinh cầu, nhưng tự tôi lại chẳng biết hoan hỉ. Câu chuyện móng vuốt ấy, nhẽ ra là tôi nên cảm động, thì tôi lại tức bực thật nhiều..."
Và cậu còn thổ lộ thêm:
" Tôi ngày ấy chưa biết thấu hiểu chi! Đáng ra cần phán đoán hành động chứ chẳng bởi ngôn từ. Nàng ướp hương tôi và khiến tôi tỏa sáng. Đáng lẽ tôi không nên trốn chạy thế kia! Nhẽ là phải đoán được sự âu yếm nàng trao đằng sau mấy mưu mẹo đáng thương. Loài hoa thật quá đỗi mâu thuẫn! Nhưng tôi ngày ấy còn quá trẻ để biết cách yêu nàng.
CHƯƠNG 9
Tôi đoán rằng Hoàng tử nhỏ nhờ, để mà trốn chạy, một chuyến thiên di của loài chim hoang. Buổi sáng hôm ra đi cậu sắp xếp hành tinh mình thật ngăn nắp. Cậu nạo vét kỹ càng những núi lửa còn hoạt động. Cậu sở hữu hai quả núi lửa đang hoạt động. Và chúng rất thuận tiện cho việc hâm nấu bữa đầu hôm. Cậu cũng sở hữu một ngọn núi lửa đã tắt... Nhưng, như lời cậu nói: "Biết đâu đấy!". Cậu nên ra cũng dọn dẹp sạch sẽ cả núi lửa đã tắt. Được nạo vét kỹ, các núi lửa sẽ cháy nhỏ và đều, mà không phun trào. Sự phun trào của các núi lửa này tựa như lửa lò sưởi. Tất nhiên là trên Trái đất, chúng ta quá nhỏ bé để nạo vét những núi lửa. Bởi lẽ này chúng gây cho ta hàng tấn chuyện lụy phiền.
Hoàng tử nhỏ cũng nhổ lên, với một chút u sầu, những mầm cây Baobab cuối cùng. Cậu tin rằng mình sẽ không trở về. Nhưng mấy việc quen thuộc này dường như, trong buổi sáng ấy, lại vô cùng dịu ngọt. Mà, khi cậu tưới nước cho nàng hoa lần cuối, rồi chuẩn bị đặt nàng trong bầu kính, cậu nhận thấy sắp bật khóc đến nơi.
- Vĩnh biệt! – Cậu nói với hoa.
Nhưng nàng không đáp lại.
- Vĩnh biệt! – Cậu nhắc lại lần nữa.
Nàng hoa ho lên. Mà không phải vì cơn cảm cúm.
- Em đã thật ngốc - Nàng cất tiếng, rốt cùng - Xin anh hãy tha lỗi cho em. Hãy gắng gượng mà hạnh phúc nhé.
Hoàng tử nhỏ ngạc nhiên vì không có trách móc nào. Cậu đứng sững bối rối, cái bầu kính lơ lửng trên không. Cậu không hiểu được vẻ bình thản dịu dàng này.
- Phải rồi, em yêu anh - Hoa nói với cậu – Anh không biết chi cả, bởi là lỗi em. Điều ấy nào mảy may quan trọng. Nhưng anh cũng khờ ngốc như em. Hãy gắng gượng mà hạnh phúc nhé... Thôi bỏ cái bầu kính đó đi. Em không muốn gì nó nữa.
- Thế còn gió...
- Em chẳng dễ bị cảm thế đâu... Với lại gió mát ban đêm tốt cho em lắm. Em là một bông hoa mà.
- Nhưng còn bọn thú...
- Chắc sẽ phải chịu đựng vài ba con sâu nếu em muốn nhìn thấy bươm bướm. Hẳn như đó là điều tuyệt vời. Nếu không, ai sẽ viếng thăm em? Anh sẽ ở xa, chính anh. Còn bọn thú dữ, em không sợ. Em có móng vuốt này.
Và nàng ngây thơ đưa ra bốn cái gai. Rồi nàng nói thêm:
- Đừng chần chừ như vậy nữa, khó chịu lắm. Anh đã quyết ra đi mà. Vậy hãy đi đi.
Bởi vì nàng không muốn cậu nhìn thấy nàng khóc. Nàng là một đóa hoa siết bao kiêu hãnh mà...
Chú thích của người dịch
Nàng hoa đã thay đổi cách xưng hô bóng bẩy ở trước « vous-vous » (chàng-em) thành lối xưng hô gần gũi « toi-moi » (anh-em).
CHƯƠNG 10
Cậu đã thấy ra quanh vùng lân cận có các tiểu tinh cầu 325, 326, 327, 328, 329 và 330. Cậu bắt đầu ghé thăm những nơi này để có việc mà bận rộn và để học hỏi.
Hành tinh thứ nhất cư ngụ bởi một ông vua. Đức vua tại vị, mặc một chiếc áo tía có viền lông thú, ngự trên một cái ngai trông giản dị nhưng cũng thật uy nghi.
- A! Kìa là một thần dân – Vị vua kêu lên khi ngài thoáng thấy Hoàng tử nhỏ.
Còn Hoàng tử nhỏ thì tự phân vân:
- Làm cách nào mà ông này có thể nhận ra mình khi chưa bao giờ gặp!
Cậu không biết rằng, đối với các bậc đế vương, thế giới đơn giản lắm. Tất cả mọi người đều là thần dân.
- Hãy đến gần đây để ta có thể nhìn ngươi kỹ hơn - Đức vua nói, ngài thật hãnh diện khi cuối cùng cũng được làm vua với một ai đó.
Hoàng tử nhỏ nhìn quanh kiếm một chỗ để ngồi, nhưng cả tinh cầu đã bị bao phủ bởi chiếc áo choàng viền lông thú tuyệt đẹp. Cậu đành phải đứng, và, vì quá mệt, cậu ngáp dài.
- Thật trái lễ nghi khi ngáp trước sự hiện diện của một bậc đế vương - Đức vua phán - Ta cấm ngươi ngáp!
- Chỉ vì tôi không thể kìm lại được, - Hoàng tử nhỏ rất bối rối trả lời - Tôi đã trải qua một quãng đường dài mà chưa được ngủ...
- Nếu vậy, - Đức vua nói - Ta lệnh cho ngươi ngáp. Ta chưa nhìn thấy ai ngáp trong nhiều năm qua. Ngáp đối với ta rất lạ lùng. Nào ! Ngáp lại đi. Đó là mệnh lệnh.
- Thế khiến tôi ngượng ngại… Tôi không thể ngáp được nữa... – Hoàng tử nhỏ nói mặt đỏ bừng.
- Hừm! Hừm! - Nhà vua đáp - Thế thì ta... ta ra lệnh cho ngươi lúc thì ngáp lúc thì...
Nhà vua hơi lắp bắp và có vẻ phật ý.
Vì đức vua chú trọng nhất mực là quyền lực của mình phải được tôn trọng. Ngài không dung thứ cho một sự trái lệnh nào. Ngài là một vị đế vương chuyên chế mà. Nhưng, vì ngài rất anh minh, ngài luôn đưa ra những mệnh lệnh hợp lý.
« Nếu ta ra lệnh» - Thông thạo, ngài tự nhủ - «Nếu ta ra lệnh cho một tướng quân biến thành chim biển, và nếu vị tướng này chẳng tuân lệnh, thì ấy không phải là lỗi của y. Mà là lỗi của ta. »
- Liệu rằng tôi có được phép ngồi không? - Hoàng tử nhỏ hỏi rụt rè.
- Ta lệnh cho ngươi ngồi – Nhà vua đáp, oai nghiêm kéo một vạt áo viền lông thú lên.
Nhưng Hoàng tử nhỏ cảm nghe kinh ngạc. Hành tinh này bé xíu. Đức vua có thể trị vì trên cái gì được đây?
- Tâu bệ hạ - Cậu nói - Tôi xin được làm phiền ngài vì một câu hỏi...
- Ta lệnh cho ngươi hỏi - vội vàng nói, vị vua.
- Tâu bệ hạ … trên cái gì ngài trị vì?
- Trên tất cả - Nhà vua đáp, với vẻ tuyệt đương nhiên.
- Trên tất cả ư?
Đức vua phác một cử chỉ dứt khoát về phía hành tinh mình, các hành tinh khác và những ngôi sao.
- Trên tất cả những cái đó sao? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Trên tất cả những cái đó..., - Đức vua đáp.
Vì chẳng những là một vị vua chuyên chế, ngài còn là một vị hoàng đế toàn năng.
- Và cả những vì sao cũng phải tuân lệnh bệ hạ sao?
- Dĩ nhiên, - Nói, đức vua – Chúng phải lập tức tuân lệnh ngay. Ta không dung thứ sự bất tuân.
Một quyền lực đến như vậy khiến Hoàng tử nhỏ phải thán phục ngạc nhiên. Nếu cậu có thứ quyền lực lớn lao này, cậu có thể mặc sức mà ngắm, không phải là bốn mươi bốn, mà bảy mươi hai, hoặc thậm chí một trăm, hay đến cả hai trăm lần cảnh mặt trời lặn chỉ trong một ngày thôi, mà chẳng cần phải xê dịch ghế ngồi ! Và rồi cậu cảm thấy hơi buồn khi chợt nhớ tới tinh cầu bé nhỏ bị bỏ rơi, cậu đánh bạo xin đức vua một ân huệ:
- Tôi những muốn được ngắm cảnh hoàng hôn... Xin ngài ban xuống một đặc ân… Xin ra lệnh cho mặt trời lặn...
- Nếu ta ra lệnh cho một tướng quân bay lượn từ đoá hoa này sang đoá hoa khác theo kiểu cách bươm bướm, hoặc phải sáng tác một vở bi kịch, hay biến thành chim biển, và nếu vị tướng ấy không thực hành mệnh lệnh được trao, thì ai, của ông đó hay của ta, điều lỗi lầm ấy?
- Đó là lỗi của ngài - đáp kiên quyết, hoàng tử nhỏ.
- Chính xác. Cần đòi hỏi dựa trên khả năng người đó có thể thực thi - Đức vua tiếp - Quyền lực trước hết phải dựa trên lẽ phải. Nếu ngươi ra lệnh cho thần dân của mình nhảy xuống biển, họ sẽ làm cách mạng. Ta có quyền đòi hỏi sự tuân lệnh vì mọi mệnh lệnh ta đưa ra đều hợp lý.
- Thế còn cảnh hoàng hôn của tôi? – Hoàng tử nhỏ nhắc, vốn đã đặt ra câu hỏi thì cậu không bao giờ quên.
- Cảnh hoàng hôn của mình, ngươi sẽ có. Ta sẽ ra lệnh. Nhưng ta chờ đợi, như theo khoa học cai trị của ta, cho đến khi hội đủ các điều kiện thuận lợi.
- Vậy đến bao giờ thì đủ? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Hừm! Hừm! - Nhà vua đáp, lật giở trước tiên cuốn lịch to tướng của ngài - Hừm! Hừm! Vào khoảng... khoảng... vào chiều tối nay khoảng bảy giờ bốn mươi! Và ngươi sẽ thấy lệnh ta được toàn nghiêm tuân thủ.
Hoàng tử nhỏ ngáp. Cậu tiếc cho cảnh hoàng hôn hụt của mình. Mà cậu lại đang trở nên hơi chán rồi.
- Tôi chẳng có gì làm ở đây nữa. - Cậu nói với nhà vua - Tôi sắp lên đường đây !
- Đừng đi, - Nhà vua, vừa mới kiêu hãnh xiết bao vì có được một thần dân, nói - Chớ đi, ta phong cho ngươi làm Bộ trưởng !
- Bộ trưởng của cái gì?
- Của… của bộ Tư pháp!
- Nhưng có ai để xét xử đâu!
- Chưa thể biết được - Đức vua nói - Ta chưa đi tuần khắp vương quốc mình. Ta già quá rồi, ở đây lại chẳng đủ chỗ cho một cỗ xa giá, mà đi bộ làm ta mệt mỏi nhiều.
- Ồ! Nhưng tôi đã kiểm tra rồi - Hoàng tử nhỏ cúi người nhìn sang phía còn lại của hành tinh - Ở kia cũng chẳng có ai…
- Vậy thì ngươi tự xét xử mình đi, - Đức vua đáp - Đó là điều khó nhất. Xét mình khó hơn xét người nhiều. Nếu ngươi xét được mình đúng đắn, thì ngươi quả là bậc hiền triết chính nhân.
- Tôi, - Hoàng nhỏ đáp - Tôi có thể tự xét mình bất cứ ở đâu. Tôi không cần phải cư trú ở đây.
- Hừm! Hừm! - Vua nói – Ta tin chắc là trên hành tinh của ta có đâu đó một con chuột già. Ta nghe nó kêu mỗi đêm. Ngươi có thể xét xử con chuột già ấy. Ngươi ghép nó vào tội chết thi thoảng. Cuộc sống của nó sẽ phụ thuộc vào phán quyết của ngươi. Nhưng mỗi lần buộc tội xong ngươi lại ra lệnh ân xá để tiết chế ngay. Bởi vì chỉ có một con đó thôi.
- Tôi, - Hoàng tử nhỏ đáp – Tôi chẳng thích khép cái gì vào tội chết, và tôi tin chắc là tôi sắp tiếp tục lên đường đây.
- Không - Nhà vua kêu lên.
Nhưng Hoàng tử nhỏ, đã chuẩn bị sẵn sàng xong, không muốn làm phiền lòng vị vua cao tuổi:
- Nếu Bệ Hạ muốn có sự tuân lệnh lập tức ngay, một mệnh lệnh hợp lý cần được ban ra lúc này. Một mệnh lệnh có thể ban xuống cho tôi, ví dụ, ra đi liền trong một phút nữa. Hình như mọi điều kiện đều đã thuận lợi...
Nhà vua không nói gì, Hoàng nhỏ hơi do dự thoạt đầu, rồi, thở dài, cậu bước đi.
- Ta phong cho ngươi làm Đại sứ - Nhà vua vội vàng kêu lên.
Ngài vẫn có một vẻ rất chi uy lực.
“ Những người lớn quả thật lạ lùng”. Hoàng tử nhỏ nhủ, với tự mình, trên dọc cuộc hành trình.
CHƯƠNG 11
Tinh cầu thứ hai cư ngụ bởi một gã kiêu căng.
- A ha! A ha ! Kìa một kẻ ngưỡng mộ đến thăm ta! - Gã kêu lên khi thoáng thấy Hoàng nhỏ nhỏ từ xa.
Bởi vì, với mọi kẻ kiêu căng, những người còn lại đều là kẻ ngưỡng mộ gã.
- Chúc một ngày tốt lành - Hoàng tử nhỏ nói - Anh có cái mũ ngộ quá.
- Để chào đấy - Gã kiêu căng đáp - Để chào khi ta được hoan hô. Không may là chưa từng có ai khác ngang qua đây.
- Thật thế ư? - Hoàng nhỏ nói mà không hiểu gì.
- Hãy vỗ tay đi, tay này đối tay kia - Gã kiêu căng gợi ý.
Hoàng tử nhỏ vỗ tay, tay này đối tay kia. Gã kiêu căng liền ngả mũ chào một cách khiêm tốn.
“ Cái này, có vẻ vui hơn chuyến thăm viếng nhà vua”, Hoàng tử nhỏ thầm nghĩ. Và cậu tiếp tục vỗ tay, tay này đối tay kia. Gã kiêu căng lại nâng mũ chào lần nữa.
Sau năm phút tập dượt, Hoàng tử nhỏ thấy chán sự đơn điệu của trò chơi.
- Thế, để chiếc mũ rơi - Cậu hỏi - thì phải làm sao?
Nhưng gã kiêu căng không nghe cậu nói. Những gã kiêu căng chẳng nghe gì khác ngoài những lời tán tụng.
- Cậu ngưỡng mộ ta thật sự rất nhiều có phải không? - Gã hỏi Hoàng tử nhỏ.
- “ Ngưỡng mộ” nghĩa là gì?
- “Ngưỡng mộ” nghĩa là "thừa nhận ta là người đẹp nhất, ăn mặc sang nhất, giàu có nhất và thông minh nhất hành tinh này".
- Nhưng chỉ có mình anh trên hành tinh này thôi mà!
- Hãy chiều ta đi. Dẫu sao hãy cứ ngưỡng mộ ta đi!
- Tôi ngưỡng mộ anh – Hoàng tử nhỏ nói, nhún nhẹ vai - Nhưng sao điều đó lại làm anh quan tâm đến thế?
Rồi Hoàng tử nhỏ ra đi.
“ Những người lớn rõ ràng rất kỳ quặc” – Cậu nhủ đơn thuần với tự mình trên dọc cuộc hành trình.
----
Photo: Sian Martin
CHƯƠNG 12
Hành tinh tiếp theo cư ngụ một bợm nhậu. Chuyến viếng thăm này hết sức ngắn ngủi nhưng lại làm cho Hoàng tử nhỏ ưu tư thật nhiều.
- Ông đang làm gì đấy? – Cậu hỏi tay bợm nhậu, đang ngồi im lặng trước một bộ sưu tập chai rỗng và một bộ sưu tập chai đầy.
- Ta đang uống rượu - Bợm nhậu trả lời, có vẻ thảm sầu.
- Tại sao ông lại uống rượu? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Để quên – Bợm nhậu đáp.
- Để quên cái gì? – Hoàng tử nhỏ tra, cậu bắt đầu cảm thấy ái ngại cho hắn.
- Để quên mình hổ thẹn - Bợm nhậu cúi đầu thú nhận.
- Hổ thẹn vì nỗi gì? – Hoàng tử nhỏ vấn, cậu muốn giúp hắn.
- Hổ thẹn vì uống rượu! - Bợm nhậu kết thúc và thật sự khép kín trong lặng im.
Và Hoàng tử nhỏ ra đi, đầy bối rối.
“ Những người lớn rõ ràng rất vô cùng kỳ quặc” - Cậu nhủ với tự mình trên dọc cuộc hành trình.
----------
Photo: le buveur de Sian Martin
CHƯƠNG 13
Tinh cầu thứ tư của một doanh nhân. Ông này bận rộn đến nỗi không ngẩng đầu lên khi Hoàng tử nhỏ tới.
- Chúc một ngày tốt lành – Hoàng tử nhỏ nói với ông ta - Điếu thuốc của ông tắt rồi kìa.
- Ba cộng hai bằng năm. Năm với bảy mười hai. Mười hai với ba mười lăm. Chúc một ngày tốt lành. Mười lăm với bảy hăm hai. Hăm hai với sáu hăm tám. Chẳng có thời giờ mà châm lại nó nữa. Hăm sáu với năm ba mươi mốt. Phù! Tất cả là năm trăm linh một triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm ba mươi mốt.
- Năm trăm triệu cái gì vậy?
- Hả? Cậu vẫn còn đấy à? Năm trăm linh một triệu... ta cũng chẳng biết nữa... Ta có nhiều biết mấy công việc! Ta rất nghiêm túc, ta, ta không phỉnh mình vì những chuyện tầm phào! Hai với năm bảy...
- Năm trăm linh một triệu cái gì vậy? – Hoàng tử nhỏ lặp lại, suốt đời cậu không bao giờ bỏ một câu hỏi nào, một khi đã nêu ra.
Nhà kinh doanh ngẩng đầu lên:
- Trong suốt năm mươi tư năm ta sống trên hành tinh này, ta chỉ bị quấy rầy ba lần. Lần đầu, hai mươi hai năm trước, do một con bọ cánh cứng rơi xuống chỉ có trời mới biết từ đâu. Nó gây ra một tiếng động khủng khiếp, và ta tính sai bốn lỗi trong một phép cộng. Lần thứ hai, cách đây mười một năm, khủng hoảng bởi cơn phong thấp. Ta thiếu tập thể dục. Ta chẳng có thì giờ để mà đi dạo chơi. Ta là một người nghiêm túc, ta ấy! Lần thứ ba... chính là lần này! Khi ta đang tính tới năm trăm linh một triệu... (*)
- Triệu cái gì?
Nhà doanh nghiệp biết không hy vọng gì được yên thân:
- Triệu những vật nho nhỏ mà người ta thấy đôi khi trên bầu trời.
- Những con ruồi ư?
- Không phải. Những vật nhỏ lấp lánh kia.
- Những con ong à?
- Không phải. Những vật nho nhỏ vàng óng vẫn làm mơ tưởng bọn lười nhác ấy. Nhưng ta là một người nghiêm túc, ta ấy! Ta không có thời gian để mà mộng mơ.
- À! Những vì sao phải không?
- Đó đúng rồi. Những vì sao.
- Thế ông làm gì với năm trăm triệu vì sao?
- Năm trăm linh một triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm ba mươi mốt. Ta là một người nghiêm túc, ta, ta rất chính xác!
- Thế ông làm gì với những vì sao?
- Ta làm gì à?
- Vâng.
- Chẳng làm gì sất. Ta sở hữu chúng.
- Ông sở hữu những vì sao ư?
- Đúng thế.
- Nhưng tôi đã gặp một ông vua cũng...
- Các vị vua không sở hữu gì cả. Họ chỉ "trị vì" ở trên thôi. Rất khác nhau.
- Thế việc sở hữu những vì sao giúp gì cho ông?
- Nó làm ta giàu có.
- Thế có ích gì cho ông chuyện được giàu có?
- Để mua những vì sao khác, nếu có người tìm thấy nữa.
“Người này,” – Hoàng tử nhỏ nói với tự mình – “lý sự hơi giống tay say rượu mình.”
Tuy thế cậu vẫn hỏi thêm:
- Làm thế nào người ta sở hữu những vì sao?
- Chúng của ai nào?- vặn lại, càu nhàu, vị doanh nhân ấy.
- Tôi không biết. Chẳng của ai cả.
- Thế thì chúng là của ta, bởi ta là người đầu tiên nghĩ tới điều đó.
- Chỉ thế là đủ ư?
- Dĩ nhiên rồi. Khi ngươi tìm ra một viên kim cương không của ai cả, thì nó là của ngươi. Khi ngươi phát hiện ra một hòn đảo không của ai cả, thì nó là của ngươi. Khi ngươi là người đầu tiên có một sáng kiến, ngươi đăng ký quyền sở hữu : nó là của ngươi. Và ta, ta sở hữu những vì sao kia, vì chưa hề có ai nghĩ đến việc sở hữu chúng trước ta.
- Điều này thì đúng - Hoàng nhỏ nói – Vậy ông làm gì với chúng?
- Ta quản lý chúng. Ta đếm đi đếm lại chúng - Nhà doanh nghiệp nói - Khó đấy. Nhưng ta là một người nghiêm túc !
Hoàng tử nhỏ vẫn chưa hài lòng:
- Tôi, nếu tôi sở hữu một chiếc khăn choàng, tôi sẽ quàng nó quanh cổ và mang theo bên mình. Tôi, nếu tôi sở hữu một bông hoa, tôi có thể hái nàng và mang theo bên mình. Nhưng ông đâu thể hái được những vì sao !
- Không, nhưng ta có thể cất chúng trong ngân hàng.
- Nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là ta viết vào tờ giấy nhỏ số lượng những vì sao của mình. Rồi thì ta cất giấu mẩu giấy ấy trong một ngăn tủ có khóa chặt.
- Chỉ thế thôi à?
- Thế là đủ !
“ Vui đấy – Hoàng tử nhỏ nghĩ – “Vậy cũng đủ nên thơ. Nhưng làm thế không mấy nghiêm túc lắm.”
Hoàng tử nhỏ có ý tưởng về sự nghiêm túc rất khác với những người lớn.
- Tôi, - Cậu lại nói - Tôi sở hữu một bông hoa và tôi tưới nước cho nàng mỗi ngày. Tôi sở hữu ba ngọn núi lửa và tôi nạo vét chúng mỗi tuần. Kể cả ngọn núi lửa đã tắt. Biết đâu đấy! Điều này hữu ích cho những núi lửa, và hữu ích cho bông hoa của tôi, là tôi có chúng. Nhưng ông chẳng giúp ích gì cho những vì sao ... (*)
Nhà doanh nhân mở miệng nhưng chẳng nói được gì, và Hoàng nhỏ ra đi.
“ Những người lớn nhất định là hoàn toàn bất thường” Cậu nhủ đơn thuần với tự mình trên dọc cuộc hành trình.
------
Chú thích của người dịch :
« hanneton » : Bọ cánh cứng ; còn có nghĩa bóng là người dại dột.
« une addition » : bài tính cộng ; còn có nghĩa khác là một hoá đơn.
« manque d’exercice » : thiếu tập thể dục ; còn có nghĩa là thiếu sự rèn luyện, thiếu sự luyện tập.
« posséder » : có, sở hữu ; còn có nghĩa là nắm bắt, tinh thông, chi phối được.
CHƯƠNG 14
Hành tinh thứ năm rất lạ lùng. Nó nhỏ nhất trong tất cả các hành tinh. Ở đó chỉ đủ chỗ cho một cột đèn và một người thắp đèn. Hoàng tử nhỏ không hiểu nổi để làm gì, ở đâu đó trên bầu trời, nơi một tinh cầu không nhà cửa lẫn dân cư, một cột đèn và một người thắp đèn. Tuy vậy, cậu vẫn nói với tự mình:
“Rất có thể người này vô lý. Thế nhưng ông ta còn ít vô lý hơn nhà vua, hơn gã kiêu căng, hơn nhà doanh nghiệp hay tay bợm nhậu. Chí ít việc ông làm còn có một ý nghĩa. Khi ông ta thắp ngọn đèn của mình lên, như thể ông ta làm tái sinh một ngôi sao, hay một bông hoa. Khi ông ta tắt ngọn đèn đi, bông hoa hay ngôi sao kia chìm vào giấc ngủ. Đó là một công việc rất tốt đẹp. Một việc thật sự hữu ích bởi vì nó tốt đẹp.
Khi ghé gần hành tinh, cậu kính cẩn chào người thắp đèn:
- Chúc một ngày tốt lành. Vì sao ông tắt ngọn đèn của mình đi vậy?
- Đó là quân lệnh - Người thắp đèn trả lời - Chúc một ngày tốt lành.
- Quân lệnh thế nào cơ?
- Là tắt ngọn đèn của ta đi. Chúc một buổi tối tốt lành.
Và ông ta thắp ngọn đèn lên.
- Nhưng tại sao ông lại vừa thắp đèn lên?
- Là quân lệnh mà - Người thắp đèn trả lời.
- Tôi không hiểu – Hoàng tử nhỏ nói.
- Không có gì để hiểu cả - Người thắp đèn đáp - Quân lệnh là quân lệnh. Chúc một ngày tốt lành.
Và ông ta lại tắt ngọn đèn.
Rồi ông ta thấm mồ hôi trên trán bằng một chiếc khăn tay ca rô đỏ.
- Công việc của ta thật kinh khủng. Xưa kia thì nó còn có lý. Ta tắt ngọn đèn vào buổi sáng và ta thắp nó lên vào buổi tối. Ta có phần còn lại của ban ngày để thư thái, và phần còn lại của ban đêm để ngủ nghê...
- Và, sau thời kỳ ấy, quân lệnh thay đổi sao?
- Quân lệnh không thay đổi - Người thắp đèn nói - Bi kịch là ở chỗ đó! Năm lại năm hành tinh này quay nhanh và nhanh hơn, mà quân lệnh thì không thay đổi!
- Thế rồi sao? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Giờ thì nó quay mỗi phút một vòng, ta chẳng còn giây nào để nghỉ ngơi cả. Ta phải thắp đèn và phải tắt đèn hàng mỗi phút!
- Thế thật kỳ khôi! Một ngày nơi ông chỉ kéo dài có một phút thôi!
- Thế chẳng có gì kỳ khôi cả ! - Người thắp đèn nói - Ta chuyện trò với nhau thế đã một tháng rồi.
- Một tháng kia ư?
- Phải. Ba mươi phút. Ba mươi ngày! Chúc một đêm tốt lành.
Và ông lại thắp đèn mình lên.
Hoàng tử nhỏ nhìn ông ta và thấy yêu mến người thắp đèn, một người trung thành đến vậy với điều quân lệnh ấy. Cậu nhớ tới những buổi hoàng hôn mà xưa kia chính cậu thường kiếm tìm, bằng dịch chiếc ghế ngồi. Cậu những muốn giúp người bạn mình:
- Ông biết không... tôi biết một cách để ông nghỉ ngơi bất cứ khi nào ông muốn...
- Ta luôn luôn mong muốn - Người thắp đèn nói.
Bởi vì người ta có thể, đồng thời, vừa trung thành lại vừa lười biếng. (*)
Hoàng tử nhỏ tiếp tục:
- Hành tinh của ông nhỏ đến nỗi ông chỉ cần sải ba bước là đi hết một vòng. Ông chỉ việc đi thật chậm để lúc nào cũng ở dưới ánh mặt trời. Khi nào ông muốn nghỉ ngơi, ông chỉ việc bước đi... thế là ngày sẽ kéo dài như ông muốn.
- Điều ấy chẳng giúp ích được ta bao nhiêu - Người thắp đèn nói - Điều ta thích nhất trên đời, là ngủ.
- Thật là không may – Hoàng tử nhỏ nói.
- Thật là không may - Người thắp đèn nói - Chúc một ngày tốt lành.
Rồi ông ta lại tắt đèn mình đi.
“Người này” - Hoàng tử nhỏ tự nhủ, trong lúc đã tiếp tục xa hơn cuộc hành trình - “Ông ta sẽ bị khinh thường bởi tất cả những người kia, bởi ông vua, bởi gã kiêu ngạo, bởi tay bợm nhậu, bởi nhà doanh nghiệp. Nhưng với ta chỉ có mình ông là không lố bịch. Bởi vì, có thể, ông là người duy nhất quan tâm tới điều gì khác ngoài bản thân mình.”
Cậu thở dài luyến tiếc và lại nhủ thầm: “ Chỉ duy nhất người này đáng cho mình kết bạn. Nhưng tinh cầu của ông ấy quả thật quá bé nhỏ. Chẳng đủ chỗ cho hai người... "
Điều mà hoàng tử nhỏ không dám thú nhận với mình, cậu tiếc nuối hành tinh may mắn này ở chỗ, chủ yếu là, một nghìn bốn trăm bốn mươi lần mặt trời lặn mỗi hai mươi bốn giờ!
---
Chú thích của người dịch :
« fidèle » : có nghĩa là trung thành, chung thủy ; cũng còn có nghĩa là trung thực
CHƯƠNG 15
Hành tinh thứ sáu là một tinh cầu mười lần rộng lớn hơn. Ở đó cư ngụ một quý ông lớn tuổi, người viết những cuốn sách đồ sộ.
- Xem đây! Này một nhà thám hiểm! - Ông kêu lên, khi nhìn thấy Hoàng tử nhỏ.
Hoàng tử nhỏ ngồi xuống trên chiếc bàn và thở dốc thoảng hồi. Cậu đã trải qua một hành trình dài đến nỗi!
- Cậu từ đâu đến? - Quý ông lớn tuổi hỏi.
- Quyển sách dầy này là chi thế? - Hoàng tử nhỏ hỏi - Ông làm gì ở đây vậy?
- Ta là một nhà địa lý - Quý ông lớn tuổi nói.
- Nhà địa lý là người như thế nào?
- Đó là một học giả, người biết rõ tìm ở đâu những sông biển, thành phố, núi non và các hoang mạc.
- Điều đó thật thú vị - Hoàng tử nhỏ nói – Đấy cuối cùng cũng có một nghề ra nghề!
Rồi cậu liếc nhanh quanh mình nơi hành tinh của nhà địa lý. Chưa bao giời cậu trông thấy một tinh cầu uy nghiêm thế này.
- Thật đẹp quá, tinh cầu của ông. Có đại dương không ông?
- Ta không thể biết rõ - Nhà địa lý nói.
- Ồ! (Hoàng tử nhỏ thất vọng.) Thế còn núi non?
- Ta không thể biết rõ - Nhà địa lý nói.
- Còn các thành phố và các dòng sông và các sa mạc?
- Ta cũng không thể biết rõ nốt - Nhà địa lý nói.
- Nhưng ông là một nhà địa lý cơ mà!
- Đúng vậy, - Nhà địa lý nói - Nhưng ta có là nhà thám hiểm đâu. Ta hoàn toàn thiếu các nhà thám hiểm. Nhiệm vụ của nhà địa lý không phải là đi đếm những thành phố, những con sông, những ngọn núi, những đại dương và những hoang mạc. Nhà địa lý quá đỗi quan trọng nên không thể đi rong chơi. Ông ta không rời bàn giấy của mình. Nhưng ông ta tiếp nhận thông tin từ các nhà thám hiểm. Ông ta phỏng vấn họ, và ghi chép lại những hồi ức của họ. Nếu những thông tin của một trong các nhà thám hiểm ấy có điểm đáng chú ý, thì nhà địa lý sẽ làm cuộc điều tra về tư cách của nhà thám hiểm đó.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì nếu một nhà thám hiểm nói dối thì sẽ kéo theo những sai lầm tai hại trong cuốn sách của nhà địa lý. Và cả nhà thám hiểm nào uống nhiều rượu cũng thế.
- Tại sao vậy? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Bởi kẻ say rượu nhìn một hóa hai. Thế là nhà địa lý sẽ ghi hai ngọn núi, ở một nơi chỉ có một ngọn thôi.
- Tôi biết một người, -Hoàng tử nhỏ nói – người có thể sẽ thành một nhà thám hiểm tệ hại.
- Có thể như vậy. Thế nên, khi tư cách của nhà thám hiểm có vẻ tốt rồi, người ta cần làm cuộc điều tra về phát hiện của người ấy.
- Người ta đi kiểm tra nó ư?
- Không. Như thế quá phức tạp. Nhưng người ta yêu cầu nhà thám hiểm cung cấp các bằng chứng. Nếu người này giả như phát hiện ra một ngọn núi lớn, người ta yêu cầu anh ấy phải mang về vài tảng đá to.
Nhà địa lý bỗng đột nhiên kích động:
- Nhưng còn cậu, cậu đến từ xa! Cậu là một nhà thám hiểm! Cậu phải miêu tả hành tinh của cậu cho ta!
Và nhà địa lý, mở cuốn sổ ghi chép của ông ra, gọt bút chì. Trước tiên người ta ghi các chuyện kể của nhà thám hiểm bằng bút chì. Người ta sẽ đợi, để ghi lại bằng bút mực, sau khi nhà thám hiểm cung cấp các bằng chứng.
- Thế nào? - Nhà địa lý hỏi.
- Ồ! Chỗ tôi ấy ư - Hoàng tử nhỏ nói - Nó chẳng mấy chi thú vị, nó rất nhỏ. Tôi có ba quả núi lửa. Hai quả hoạt động, một quả đã tắt. Nhưng biết đâu đấy.
- Biết đâu đấy - Nhà địa lý nói.
- Tôi cũng có một bông hoa.
- Chúng ta không ghi nhận những bông hoa - Nhà địa lý nói.
- Tại sao không! Đó là điều đẹp nhất kia mà!
- Bởi vì hoa vốn phù du.
- "Phù du" có nghĩa là gì?
- Các sách địa lý - Nhà địa lý nói - là những cuốn sách nghiêm túc nhất trong mọi loại sách. Chúng chẳng bao giờ lạc hậu cả. Rất hiếm khi một ngọn núi chuyển chỗ. Một dương cạn nước là điều khó xảy ra. Chúng ta chỉ ghi lại những gì bất diệt.
- Nhưng những núi lửa đã tắt có thể thức dậy - Hoàng tử nhỏ ngắt lời - "Phù du" có nghĩa là gì?
- Núi lửa dầu tắt hay hoạt động, với chúng ta đều như nhau cả thôi - Nhà địa lý nói - Cái đáng tính đếm với chúng ta, chính là quả núi. Nó không thay đổi.
- Nhưng "phù du" có nghĩa là gì? - Hoàng nhỏ nhắc lại, suốt đời, cậu không bỏ qua một câu hỏi nào, một khi đã nêu ra.
- Nó có nghĩa là "cái có nguy cơ biến mất cận kề"
- Đóa hoa của tôi đang có nguy cơ biến mất cận kề sao ?
- Chắc rồi.
"Nàng hoa của mình vốn phù du," Hoàng tử nhỏ nhủ thầm, "Mà nàng chẳng có gì ngoài bốn cái gai để tự phòng thủ hòng chống chọi với thế giới! Và ta đã bỏ nàng cô độc ở quê nhà!"
Đó là cơn hối tiếc đầu tiên của cậu. Nhưng cậu lấy lại can đảm ngay :
- Bây giờ ông khuyên tôi nên đi thăm đâu? - Cậu hỏi.
- Trái đất, - Nhà địa lý trả lời - Hành tinh ấy có tiếng tốt đẹp đấy...
Thế là Hoàng tử nhỏ lên đường, lòng nhung nhớ về đoá hoa của cậu.
CHƯƠNG 16
Hành tinh thứ bảy chính là Trái Đất.
Trái Đất nào phải một tinh cầu tầm thường! Người ta đếm được ở đây một trăm mười một vị vua (đừng quên rằng trong đó, hiển nhiên, có kể cả những ông vua đen), bảy nghìn nhà địa lý, chín trăm nghìn thương nhân, bảy triệu rưỡi kẻ say rượu, ba trăm mười một triệu kẻ kiêu ngạo, nói cách khác, xấp xỉ hai tỷ người lớn. (*)
Để bạn có khái niệm về kích thước của Trái Đất tôi cần nói với bạn rằng trước khi phát minh ra điện người ta phải duy trì, trên cả sáu châu lục, một đội quân thực sự gồm bốn trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm mười một người đốt đèn.
Nhìn phía hơi xa ấn tượng quả lộng lẫy huy hoàng. Chuyển động của đội quân này được điều chỉnh hệt như trong một vở vũ nhạc kịch opera ba lê. Trước tiên là phiên những người đốt đèn nước New Zealand và nước Úc. Những người này, sau khi đốt đèn mình xong, họ chìm vào giấc ngủ. Thế là lôi cuốn vào vũ điệu lượt những người đốt đèn Trung Quốc và Siberia. Rồi sau đó cả họ nữa cũng lẻn mất vào hậu trường. Vậy nên đến phiên những người đốt đèn của Nga và Ấn Độ. Rồi đến lượt những người của Châu Phi và Châu Âu. Tiếp theo của Nam Mỹ. Rồi đến của Bắc Mỹ. Và chẳng bao giờ họ nhầm lẫn thứ tự vào sân khấu của mình. Quả thật là hào hùng vĩ đại.
Duy nhất, người đốt đèn của cây đèn độc nhất ở Bắc Cực, và đồng đội của ông ta với cây đèn độc nhất ở Nam Cực, điều dẫn cuộc sống với nhàn rỗi và thờ ơ: họ làm việc chỉ hai lần trong năm.
----
Chú thích của người dịch
(*) Vào những năm 1940, khoảng thời gian tác giả xuất bản cuốn sách, dân số thế giới xấp xỉ 2,3 tỷ người
CHƯƠNG 17
Khi người ta muốn tỏ ra dí dỏm, điều xảy tới là người ta sẽ dối trá chút đỉnh. Tôi đã không trung thực lắm đâu khi kể với bạn về những người đốt đèn. Tôi có nguy cơ đưa ra một khái niệm sai lệch về hành tinh của chúng ta với những người chưa biết nó. Loài người chiếm một phần rất nhỏ chỗ trên Trái Đất. Nếu hai tỷ con người đang sống trên hành tinh này mà đứng khá sát vào nhau, như cho một cuộc họp mặt, thì họ có thể dễ dàng xếp dọc trong một quảng trường công cộng hai mươi dặm rộng và hai mươi dặm dài. Tất cả loài người có thể lèn ních lại được trên một hòn đảo bé nhất của Thái Bình Dương.
Những người lớn, dĩ nhiên, sẽ chẳng tin bạn đâu.
Họ tưởng tượng mình chiếm nhiều chỗ lắm. Họ thấy mình quan trọng như những cây Baobab. Bạn khuyên họ vậy hãy làm các tính toán đi. Họ sùng bái những con số: chúng khiến họ hài lòng. Nhưng đừng phí thời giờ của bạn vào hình phạt đó. Nó chẳng ích gì. Bạn đã tin ở tôi.
Hoàng tử nhỏ, một lần trên Trái Đất, vậy là đã rất ngạc nhiên vì chẳng thấy một người nào. Cậu vừa đã sợ rằng có thể mình đến nhầm hành tinh, thì một cái vành mầu ánh trăng chuyển động dưới cát.
- Chúc buổi tối tốt lành - Hoàng tử nhỏ nói để phòng xa.
- Chúc buổi tối tốt lành - Rắn nói.
- Là hành tinh nào tôi đã rơi xuống vậy? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Trên Trái Đất, ở Châu Phi - Rắn trả lời.
- A!... Thế không có người nào trên Trái Đất ư?
- Đây là sa mạc. Chẳng có người nào trong sa mạc đâu. Trái Đất rộng mà. - Rắn nói.
Hoàng tử nhỏ ngồi xuống một tảng đá và ngước mắt lên phía trời.
- Tôi đang tự hỏi - Cậu nói – phải chăng những ngôi sao được thắp sáng cốt cùng để mỗi người có thể một ngày kia tìm lại được ngôi sao của chính mình. Hãy ngắm nhìn tinh cầu của tôi kìa. Chỉ ngay bên trên chúng ta... Nhưng sao mà xa xôi là thế!
- Nó thật đẹp - Rắn nói – Vậy cậu tới đây để làm gì?
- Tôi có nhiều rắc rối với một bông hoa - Hoàng tử nhỏ trả lời.
- À! - Rắn nói.
Và cả hai lặng im.
- Con người ở đâu? - Sau cùng Hoàng tử nhỏ tiếp tục - Người ta cảm thấy hơi cô độc giữa sa mạc...
- Người ta cũng cô độc khi ở giữa loài người - Rắn nói.
Hoàng nhỏ nhìn kĩ rắn rất lâu.
- Cậu là một loài vật kỳ lạ, - Cuối cùng cậu nói - mảnh khảnh như một ngón tay...
- Nhưng ta mạnh hơn ngón tay của một bậc đế vương - Rắn nói.
Hoàng tử nhỏ mỉm cười:
- Cậu không mạnh lắm đâu... đến chân cậu cũng chẳng có... cậu thậm chỉ chẳng thể đi xa...
- Ta có thể đưa cậu đi xa hơn cả một chiếc tàu - Rắn nói.
Rồi rắn quấn cuộn quanh cổ chân Hoàng tử nhỏ, trông giống tựa một chiếc vòng vàng.
- Bất cứ kẻ nào mà ta chạm tới, ta gửi trả hắn về với đất nơi mà hắn bước ra - Rắn nói thêm - Nhưng cậu thật thuần khiết và cậu đến từ một ngôi sao... (*)
Hoàng tử nhỏ không đáp lại điều gì.
- Cậu khiến ta cảm nghe thương xót, cậu quá đỗi yếu ớt, trên Trái Đất bằng đá hoa cương này. Ta có thể giúp cậu một ngày nếu cậu quá luyến tiếc hành tinh quê nhà. Ta có thể...
- Ồ! Tôi hiểu rõ rồi - Hoàng tử nhỏ nói - Nhưng tại sao cậu lúc nào cũng nói ẩn đố thế?
- Mọi ẩn đố ta đều giải tan tất - Rắn nói.
Rồi cả hai im lặng.
---
Chú thích của người dịch
(*) Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo giải thích loài người do thiên chúa nặn tạo từ đất thành.
CHƯƠNG 18
Hoàng tử nhỏ băng qua sa mạc và chỉ gặp duy nhất một bông hoa. Một đóa hoa ba cánh, một đóa hoa chẳng đáng giá gì...
- Chúc một ngày tốt lành - Hoàng tử nhỏ nói.
- Chúc một ngày tốt lành - Bông hoa nói.
- Loài người ở đâu? - Hoàng tử nhỏ lịch thiệp hỏi.
Bông hoa, một ngày nọ, đã trông thấy một đoàn lữ hành:
- Con người hả? Có tồn tại đấy, tôi nghĩ vậy, có khoảng sáu hay bảy. Tôi đã thoáng thấy họ nhiều năm trước đây. Nhưng không ai biết tìm họ ở đâu. Gió thổi họ đi. Họ thiếu gốc rễ, điều đó vướng nghẽn họ thật nhiều.
- Vĩnh biệt - Hoàng tử nhỏ nói.
- Vĩnh biệt - Đóa hoa nói.
CHƯƠNG 19
Hoàng tử nhỏ leo lên một ngọn núi cao. Những núi non duy nhất cậu từng biết đến là ba quả núi lửa cao ngang đầu gối cậu. Và cậu dùng ngọn núi lửa đã tắt như một chiếc ghế đẩu. "Từ đỉnh một ngọn núi cao như núi này", nên vậy cậu nghĩ thầm, "mình có thể phóng nhìn qua một lượt toàn bộ hành tinh và tất cả mọi người..." Nhưng cậu chẳng thấy được gì ngoài những chóp đá nhọn hoắt như đỉnh tháp.
- Chúc một ngày tốt lành - Cậu nói để phòng xa.
- Chúc một ngày tốt lành... Chúc một ngày tốt lành... Chúc một ngày tốt lành... - Tiếng vang vọng lại.
- Các cậu là ai? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Các cậu là ai... Các cậu là ai... Các cậu là ai... - Tiếng vang vọng lại.
- Hãy làm bạn với tôi, tôi cô đơn quá - Cậu nói.
- Tôi cô đơn quá... Tôi cô đơn quá... Tôi cô đơn quá... - Tiếng vang vọng lại.
"Thật là một hành tinh kỳ cục!" – Cậu nghĩ thầm lúc này - "Nó toàn khô khốc, và toàn nhọn hoắt, và toàn mặn chát. Còn loài người thì thiếu thốn trí tưởng tượng. Họ lặp lại những gì được nói cho ... Nơi của mình có một bông hoa: nàng luôn luôn là người lên tiếng trước..."
CHƯƠNG 20
Việc đã tới với Hoàng tử nhỏ, đã đi bộ rất lâu, băng qua những cồn cát, những khối đá và những băng tuyết, cuối cùng cũng tìm thấy một con đường. Mà mọi con đường đều đưa đến chỗ loài người.
- Chúc một ngày tốt lành - Cậu nói.
Đó là một khu vườn nở rộ những bông hồng.
- Chúc một ngày tốt lành- Những bông hồng đáp.
Hoàng tử nhỏ ngắm nhìn chăm chú các bông hồng. Tất cả họ đều giống nàng hoa của cậu.
- Các nàng là ai? – Sửng sốt, cậu hỏi họ.
- Chúng em là hoa hồng - Những bông hoa nói.
- A! - Hoàng tử thốt lên…
Và cậu cảm nghe vô cùng đau khổ. Đóa hoa của cậu đã đã lể lể với cậu rằng nàng là duy nhất trong giống nòi mình trên khắp toàn vũ trụ. Vậy mà ở đây có đến năm nghìn đóa hồng, đều giống hệt nhau, trong chỉ một khu vườn!
"Nàng sẽ phật ý lắm," - Cậu nghĩ thầm - "nếu nàng thấy điều này... nàng sẽ ho rũ rượi và giả chết cho đỡ ngượng. Còn mình sẽ buộc phải làm ra vẻ chăm sóc nàng, vì, nếu không, để hủy nhục cả mình, nàng sẽ chết thật mất... "
Rồi cậu lại tự bảo: "Mình đã tưởng mình thật giàu có với một nàng hoa duy nhất, mà mình chẳng có gì ngoài một đóa hồng bình thường. Cái đó cùng với ba quả núi lửa cao chỉ ngang đầu gối, mà một quả, có lẽ, đã tắt nghỉm mãi mãi, những cái đó đâu làm mình thành một hoàng tử vĩ đại..."
Và, đổ dài trong cỏ, cậu khóc.
CHƯƠNG 21
Chính vào lúc đó cáo xuất hiện.
- Chúc một ngày tốt lành - Cáo nói.
- Chúc một ngày tốt lành - Hoàng tử nhỏ trả lời lịch thiệp, cậu ngoảnh nhìn nhưng chẳng thấy gì.
- Mình ở đây - Giọng nói cất lên - dưới cây táo…
- Cậu là ai thế? - Hoàng tử nhỏ hỏi - Cậu thật là xinh đẹp.
- Mình là cáo - Cáo nói.
- Lại chơi với mình đi - Hoàng tử nhỏ đề nghị - Mình đang buồn biết bao...
- Mình không thể chơi với cậu - Cáo nói - Mình chưa được thuần hóa.
- À! Xin lỗi - Hoàng tử nhỏ nói.
Nhưng, sau khi ngẫm nghĩ, cậu hỏi thêm:
- "Thuần hoá" nghĩa là gì?
- Cậu không sống ở đây - Cáo nói - Cậu đang tìm gì thế?
- Mình đang tìm con người - Hoàng tử nhỏ nói - "Thuần hoá" nghĩa là gì?
- Con người - Cáo nói - họ có súng và họ săn bắn. Thế thật phiền nhiễu! Họ cũng nuôi cả gà. Đó là cái duy nhất thú vị ở họ. Cậu đang tìm gà sao?
- Không - Hoàng tử nhỏ nói - Mình đang tìm những người bạn. "Thuần hóa" nghĩa là gì?
- Đó là điều bị quên lãng quá đáng rồi - Cáo nói - Nó có nghĩa là "tạo nên những mối liên kết…"
- Tạo nên những mối liên kết?
- Đúng vậy - Cáo nói - Cậu đối với mình chỉ là một cậu bé như trăm nghìn cậu bé khác. Và mình chẳng cần cậu. Và cậu cũng chẳng cần mình. Mình đối với cậu chỉ là một con cáo giống như trăm nghìn con cáo khác. Nhưng, nếu cậu thuần hóa mình, chúng mình người này sẽ cần người kia. Với mình cậu sẽ là duy nhất ở trên đời. Mình cũng là duy nhất ở trên đời đối với cậu.
- Mình bắt đầu hiểu rồi – Hoàng tử nhỏ nói - Có một bông hoa... mình cho là nàng đã thuần hoá mình...
- Có thể lắm - Cáo nói – Người ta có thể gặp mọi sự trên Trái Đất này...
- Ồ! Không phải trên Trái Đất này – Hoàng tử nhỏ nói.
Cáo có vẻ vô cùng mánh mung:
- Trên một hành tinh nào khác à?
- Đúng vậy.
- Có những thợ săn, trên hành tinh đó không?
- Không.
- Đấy, thế mới thú vị! Thế có những con gà không?
- Không.
- Chả có gì hoàn hảo cả! - Cáo thở dài.
Nhưng rồi cáo quay lại ý nghĩ của mình:
- Cuộc sống của mình thật đơn điệu. Mình săn những con gà, con người săn mình. Tất cả những con gà đều giống nhau, và tất cả loài người đều giống nhau. Vì vậy mình hơi chán. Nhưng, nếu cậu thuần hóa mình, cuộc sống của mình sẽ rực ánh mặt trời. Mình sẽ nhận ra tiếng một bước chân khác hẳn mọi bước chân khác. Tiếng những bước chân khác sẽ làm mình chui ngay xuống đất. Bước chân của cậu sẽ kéo mình ra khỏi hang, như là một điệu nhạc. Và hãy nhìn kìa! Cậu có thấy, đằng kia, những đồng lúa mì ấy không? Mình không ăn bánh mì. Lúa mì đối với mình là vô dụng. Những cánh đồng lúa mì đó chẳng nhắc mình nhớ tới điều gì. Và thế, thật buồn! Nhưng cậu có mái tóc mầu của vàng kim. Và thế sẽ trở nên rất tuyệt vời khi cậu thuần hoá mình! Lúa mì, cũng nhuộm ánh vàng, sẽ nhắc mình nhớ tới cậu. Và mình sẽ yêu tiếng gió reo trên cánh đồng lúa mì...
Cáo im lặng và chăm chú nhìn Hoàng tử nhỏ một lúc lâu :
- Nếu cậu vui lòng … xin hãy thuần hoá mình đi! - Cáo nói.
- Mình cũng muốn lắm, – Hoàng tử nhỏ trả lời - Nhưng mình không có nhiều thời gian. Mình có những người bạn để mà kiếm tìm và nhiều điều để mà biết hiểu.
- Người ta chỉ hiểu được những gì họ đã thuần hóa thôi - Cáo nói - Con người không còn thời gian để biết hiểu cái gì. Họ mua những vật được làm sẵn trong các cửa hàng. Nhưng chẳng có lấy một cửa hàng nào bán những người bạn, con người chẳng còn bạn nữa. Nếu cậu muốn có một người bạn, hãy thuần hóa mình đi!
- Vậy phải làm gì? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Phải thật kiên nhẫn - Cáo trả lời - Ban đầu cậu hãy ngồi hơi xa mình một chút, như thế, trên cỏ ấy. Mình sẽ đưa mắt liếc cậu và cậu sẽ chẳng nói gì. Ngôn ngữ là nguồn gốc của ngộ nhận. Rồi, từng ngày, cậu có thể ngồi gần mình hơn một chút...
Ngày hôm sau, Hoàng tử nhỏ quay lại.
- Sẽ tốt hơn khi cậu trở lại vào đúng giờ hôm trước - Cáo nói - Nếu cậu đến, chẳng hạn, lúc bốn giờ chiều, thì từ ba giờ mình đã cảm nghe hạnh phúc. Thời khắc càng trôi, mình càng hạnh phúc hơn. Đến bốn giờ, đã, mình đã thấy bồn chồn và lo lắng; mình sẽ khám phá ra cái giá của hạnh phúc! Nhưng nếu cậu đến vào bất cứ lúc nào, mình sẽ chẳng thể biết lúc nào để trang phục cho trái tim … Phải có nghi lễ chứ.
- “Nghi lễ” là gì thế? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Đó cũng là cái bị quên lãng quá đáng rồi - Cáo nói – Đó là cái làm cho một ngày trở nên khác những ngày khác, một giờ trở nên khác những giờ khác. Có một nghi lễ, chẳng hạn, của những người thợ săn. Họ khiêu vũ vào mỗi thứ năm với các cô gái trong làng. Thế thì thứ năm là một ngày tuyệt vời! Hôm ấy mình có thể rong chơi đến tận vườn nho. Nếu những người thợ săn khiêu vũ bất cứ ngày nào, thì ngày nào cũng như ngày nào, và mình sẽ chẳng có lấy một ngày nào để nghỉ.
Thế là, Hoàng tử nhỏ thuần hoá cáo. Và khi giờ chia tay tới gần :
- Ôi! - Cáo nói - ... Mình khóc mất…
- Đó là lỗi của cậu – Hoàng tử nhỏ nói - Mình chẳng mong cậu tổn thương dầu chỉ một chút nào, nhưng cậu lại muốn mình thuần hóa cậu…
- Hẳn nhiên rồi - Cáo nói.
- Nhưng cậu sẽ khóc! – Hoàng tử nhỏ nói.
- Hẳn nhiên rồi - Cáo nói.
- Thế thì cậu chẳng được gì!
- Có chứ - Cáo nói – Bởi màu vàng của lúa mì ấy.
Rồi cáo nói thêm:
- Hãy trở lại thăm những đoá hồng đi. Cậu sẽ hiểu được vì sao đóa hoa của cậu là duy nhất ở trên đời. Rồi cậu hãy lại đây từ biệt mình, và mình sẽ tặng cậu một điều bí mật làm quà.
Hoàng tử nhỏ đi thăm lại những đoá hoa hồng.
- Các nàng chẳng giống đóa hoa của ta, các nàng vẫn còn là không quan trọng gì – Cậu bảo những bông hồng - Chưa ai thuần hoá các nàng và các nàng cũng chưa thuần hoá ai. Các nàng giống cáo của ta lúc trước. Cậu ấy chỉ là một con cáo như trăm ngàn con cáo khác. Nhưng ta đã làm bạn với cậu ấy, và giờ đây cậu ấy là duy nhất ở trên đời.
Và những bông hồng cảm nghe thật phiền.
- Các nàng xinh đẹp, nhưng các nàng trống rỗng - Hoàng tử nhỏ tiếp tục - Không ai có thể chết vì các nàng. Hẳn nhiên là, đoá hồng của ta, một người qua đường bình thường sẽ nghĩ rằng đóa hồng ấy giống các nàng. Nhưng mỗi nàng, chỉ nàng là quan trọng nhất trong tất cả các nàng, bởi chính là nàng mà tay ta đã tưới. Bởi chính là nàng mà ta đã đặt dưới bầu kính. Bởi chính là nàng mà ta đã che bằng tấm bình phong. Bởi chính là nàng mà ta đã làm chết những con sâu (trừ hai ba con để chúng biến thành bướm). Bởi chính là nàng mà ta đã lắng nghe lời phàn nàn, lời huyênh hoang, thậm chí thi thoảng cả lời im lặng. Bởi đó là đoá hồng của ta.
Rồi cậu trở lại chỗ cáo.
- Vĩnh biệt – Cậu nói.
- Vĩnh biệt - Cáo nói – Và đây là bí mật của mình. Nó thật rất giản đơn: người ta chỉ nhìn rõ bằng trái tim. Điều cốt yếu mắt thường không thể thấy.
- Điều cốt yếu mắt thường không thể thấy – Hoàng tử nhỏ lặp lại, cốt để ghi nhớ.
- Chính thời gian cậu mất cho đóa hồng của mình đã làm nàng trở nên quan trọng đến thế.
- Chính thời gian mình mất cho đóa hồng của mình... – Hoàng tử nhỏ nói, cốt để ghi nhớ.
- Con người đã quên mất chân lý này - Cáo nói - Nhưng cậu không được quên. Cậu trở thành có trách nhiệm mãi mãi với những gì cậu đã thuần hoá. Cậu có trách nhiệm với đóa hồng của cậu…
- Mình có trách nhiệm với đóa hồng của mình... – Hoàng tử nhỏ lặp lại, cốt để ghi nhớ.
CHƯƠNG 22
- Chúc một ngày tốt lành – Hoàng tử nhỏ nói.
- Chúc một ngày tốt lành - Người bẻ ghi nói.
- Ông làm gì ở đây thế? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Ta sắp xếp hành khách, thành từng gói nghìn người một - Người bẻ ghi nói – Ta chuyển hướng những đoàn tàu chở họ, lúc thì sang phải, lúc thì sang trái.
Rồi một con tàu tốc hành sáng choang, gầm lên như sấm, lao vụt qua làm rung rinh cả căn phòng gác ghi.
- Họ đang rất vội – Hoàng tử nhỏ nói - Họ đang tìm gì vậy?
- Chính người lái tàu cũng chẳng biết đâu - Người bẻ ghi nói.
Và gầm lên, theo chiều ngược lại, một con tàu tốc hành sáng choang thứ hai.
- Họ đã trở về rồi ư? – Hoàng tử nhỏ thắc mắc.
- Hai con tàu đó không phải là một – Người bẻ ghi nói – Đó là một sự hoán đổi.
- Họ không bằng lòng sao, ở chỗ của họ?
- Người ta chẳng bao giờ bằng lòng với chỗ của mình cả - Người bẻ ghi nói.
Và tiếng gầm vang của con tàu tốc hành thứ ba sáng choang.
- Họ đang đuổi theo những hành khách đầu tiên phải không? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Họ chẳng đuổi theo cái gì hết - Người bẻ ghi nói - Họ ngủ gật ở trên đó, hoặc ngồi ngáp vặt. Chỉ có những đứa trẻ là dán mũi vào cửa kính thôi.
- Chỉ những đứa trẻ biết chúng đang tìm gì – Hoàng tử nhỏ nói – Chúng đắm đuối bởi một con búp bê rách nát, và nó trở nên quan trọng vô cùng, nếu có ai lấy nó đi, chúng sẽ khóc...
- Chúng thật may mắn, người bẻ ghi nói.
CHƯƠNG 23
- Chúc một ngày tốt lành - Hoàng tử nhỏ nói.
- Chúc một ngày tốt lành – Nhà buôn nói.
Ông là một nhà buôn bán những viên thuốc cải tiến khiến làm dịu cơn khát. Nuốt một viên mỗi tuần thì sẽ chẳng còn cảm thấy có nhu cầu uống nước.
- Tại sao ông bán thứ đó? – Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Nó tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho người ta – Nhà buôn nói - Các chuyên gia giám định đã tính toán cả rồi. Có thể tiết kiệm được những năm mươi ba phút mỗi tuần.
- Rồi người ta làm gì với năm mươi ba phút ấy?
- Thì làm bất cứ gì người ta muốn...
"Mình, “ – Hoàng tử nhỏ tự nhủ – “nếu mình có năm mươi ba phút rỗi rãi ấy, mình sẽ bước thật nhẹ nhàng đến một nguồn nước..."
CHƯƠNG 24
Đã là ngày thứ tám từ khi máy bay của tôi bị hỏng trong hoang mạc, và tôi nghe câu chuyện về nhà buôn trong lúc uống nốt những giọt nước dự trữ cuối cùng.
- À! - Tôi nói với Hoàng tử nhỏ - Chúng thật hay, những hồi ức của cậu, nhưng tôi vẫn chưa chữa được máy bay của mình, tôi đã chẳng còn giọt nước nào để uống, và tôi sẽ hạnh phúc, tôi cũng thế, nếu tôi có thể đi thật nhẹ nhàng đến một nguồn nước!
- Bạn cáo của tôi, đã nói với tôi là…
- Cậu bạn bé bỏng ơi, điều này không liên quan gì nữa đến cáo!
- Tại sao?
- Bởi vì chúng ta đang sắp chết vì khát…
Cậu chẳng hiểu lí lẽ của tôi, cậu trả lời:
- Thật tuyệt khi đã có một người bạn, thậm chí cả khi người ta sắp chết. Tôi, tôi rất hạnh phúc vì đã có cáo làm bạn…
“Cậu ấy không lường được mối nguy hiểm này” – Tôi nghĩ thầm – “Cậu ấy không bao giờ đói hay khát. Một chút ánh sáng mặt trời cũng đủ cho cậu ấy rồi… “
Nhưng rồi cậu nhìn tôi và trả lời cho điều tôi vừa nghĩ:
- Tôi cũng đang khát… Chúng ta đi tìm một cái giếng đi…
Tôi phác một cử chỉ chán nản: thật phi lý đi tìm một cái giếng, dù là hú họa, giữa mênh mông hoang mạc. Tuy nhiên chúng tôi vẫn bắt đầu nặng nhọc cất bước.
Khi chúng tôi bước đi, hàng giờ, trong im lặng, bóng tối trùm xuống, và những vì sao bắt đầu tỏa sáng.Tôi thoảng nhìn mọi vật như trong cơm mê, phát sốt nhẹ, do cơn khát. Những lời của Hoàng tử nhỏ nhẩy múa trong ký ức tôi :
- Cậu thế là cũng khát chứ, cậu ấy? – Tôi hỏi
Nhưng cậu chẳng trả lời câu hỏi của tôi. Chỉ nói đơn giản:
- Nước cũng có thể rất tốt cho tim…
Tôi không hiểu câu trả lời của cậu nhưng tôi im lặng... Tôi biết là không nên hỏi cậu gì nữa.
Cậu đã mệt. Cậu ngồi xuống. Tôi ngồi xuống bên cạnh cậu. Và, sau một lúc im lặng, cậu lại nói:
- Những ngôi sao thật đẹp, bởi một bông hoa mà ta không thể nhìn thấy…
Tôi đáp lại «Hẳn nhiên rồi» và tôi nhìn, trong câm lặng, những đụn cát dưới ánh trăng.
- Sa mạc thật đẹp - Cậu nói thêm…
Và điều này đúng. Tôi luôn yêu sa mạc. Người ta có thể ngồi trên một đụn cát. Chẳng thấy gì. Chẳng nghe gì. Nhưng có một cái gì đang lặng lẽ tỏa ra…
- Cái điểm tô làm sa mạc đẹp như thế - Hoàng tử nhỏ nói – là nó ẩn giấu một cái giếng ở đâu đó…
Tôi kinh ngạc vì bỗng chợt hiểu ra sự tỏa sáng huyền bí ấy của cát. Khi tôi là một cậu bé, tôi sống trong một ngôi nhà cổ xưa, và truyền thuyết kể rằng có một kho báu được chôn giấu ở đó. Tất nhiên, chưa ai phát hiện ra, có lẽ kể cả tìm kiếm nó. Nhưng cả ngôi nhà trở nên mê hoặc. Nhà của tôi đang cất giấu một điều bí mật tận sâu trong trái tim nó…
- Đúng vậy – Tôi nói với Hoàng tử nhỏ – Dù là ngôi nhà, những vì sao hay sa mạc, cái làm chúng tuyệt đẹp là điều không thể nhìn thấy!
- Tôi rất mừng - Cậu nói - rằng ông đồng ý với cáo của tôi.
Khi Hoàng tử nhỏ chìm vào giấc ngủ, tôi bế cậu lên tay, và bắt đầu đi tiếp. Tôi đã xúc động. Dường như tôi đang nâng niu một kho báu rất đỗi mong manh. Dường như không có gì trên Trái Đất này mỏng manh như thế. Tôi ngắm nhìn, dưới ánh trăng, vầng trán nhợt nhạt, đôi mắt nhắm nghiền, những lọn tóc rung rung trong gió, và nhủ thầm : “Cái mà ta đang nhìn thấy đây chỉ là một cái vỏ. Điều quan trọng nhất thì không thể nhìn thấy…”
Khi đôi môi của cậu hé nở thoáng nụ cười, tôi lại nhủ thầm: “Điều làm ta xúc động dường ấy về Hoàng tử nhỏ đang ngủ này, chính là sự trung thành của cậu với một bông hoa, chính là hình ảnh một đóa hồng tỏa rạng trong cậu như ánh sáng một ngọn đèn, thậm chí cả khi cậu đang ngủ…” Và tôi cảm thấy cậu càng mong manh hơn.
Những ngọn đèn phải được bảo vệ cẩn thận hơn: một cơn gió thoảng cũng có thể làm chúng tắt…
Và, cứ bước đi như vậy, tôi tìm thấy cái giếng vào lúc rạng đông.
CHƯƠNG 25
- Con người - Hoàng tử nhỏ nói – tự nhồi nhét mình trong những chuyến tốc hành, mà chẳng còn biết mình đang tìm kiếm gì. Thế là họ tự dày vò và chạy quẩn quanh ...
Và cậu nói thêm:
- Nào có đáng gì ...
Cái giếng mà chúng tôi tìm được không giống những cái giếng của sa mạc Sahara. Giếng trong hoang mạc Sahara chỉ đơn giản là những cái lỗ đào trong cát. Còn cái này giống như một giếng làng. Nhưng quanh đây chẳng làng mạc nào, và tôi nghĩ mình đang rơi vào ảo mộng.
- Thật kỳ lạ - Tôi nói với Hoàng tử nhỏ - Mọi cái đều đă sẵn sàng: cái ròng rọc, xô múc nước và sợi dây thừng...
Cậu cười, cầm sợi dây, thả ròng rọc. Và cái ròng rọc rền rĩ như tiếng rên rỉ của một chong chóng chỉ hướng cũ mềm khi những ngọn gió đã ngủ lặng quá lâu.
- Ông nghe thấy chứ, – Hoàng tử nhỏ nói – Chúng ta đã đánh thức cái giếng này và nó đang hát đấy ...
Tôi không muốn cậu gắng sức quá mức:
- Để tôi làm cho - Tôi bảo cậu - Nó nặng quá với cậu.
Chầm chậm tôi kéo cái xô lên tận gờ miệng giếng. Tôi đặt nó chắc chắn trên thành giếng. Trong tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng hát của ròng rọc và, trong mặt nước vẫn còn đang run rẩy, tôi thấy rung rinh ánh mặt trời.
- Tôi khát thứ nước này – Hoàng tử nhỏ nói - Cho tôi uống đi...
Và tôi biết hiểu ra cậu tìm kiếm cái gì!
Tôi nâng thùng nước lên kề môi cậu. Cậu uống, hai mắt nhắm nghiền. Dịu ngọt như một buổi lễ. Dòng nước này hẳn là một cái gì khác hơn thực phẩm nhiều. Nó sinh ra từ những bước chân đi bộ dưới trời sao, từ tiếng hát của ròng rọc, từ gắng sức của đôi cánh tay tôi. Nó thật tốt lành cho trái tim ta, như một món quà. Ngày tôi còn là một cậu bé, ánh sáng của cây thông Noel, tiếng nhạc của buổi lễ nửa đêm, sự ngọt ngào của những nụ cười, như vậy, tất cả làm nên sự rạng rỡ của món quà Noel mà tôi được nhận.
- Con người nơi ông sống – Hoàng tử nhỏ nói - trồng năm nghìn đóa hồng trong một khu vườn... thế mà họ chẳng nhận ra cái họ đang kiếm tìm...
- Họ chẳng tìm thấy đâu - Tôi đáp lời.
- Trong khi cái họ muốn kiếm lại có thể tìm thấy ở duy nhất một đoá hồng hay chỉ một ít nước thôi...
- Hẳn vậy rồi - Tôi đáp.
Và Hoàng tử nhỏ nói thêm:
- Nhưng những con mắt vốn mù lòa. Người ta phải tìm kiếm bằng trái tim.
Tôi uống. Tôi hít hà thỏa thuê. Cát, vào lúc tinh mơ, một màu mật ong. Tôi hạnh phúc cả vì màu mật ong ấy nữa. Tại sao tôi cứ phải khổ sở...
- Ông phải giữ lời hứa – nói với tôi nhẹ nhàng, Hoàng tử nhỏ, người mà, lại thêm một lần, ngồi xuống cạnh tôi.
- Lời hứa nào cơ?
- Ông biết mà ... một cái rọ mõm cho con cừu của tôi... tôi phải có trách nhiệm với nàng hoa ấy!
Tôi rút các bản vẽ phác ra khỏi túi. Hoàng tử nhỏ nhìn qua chúng, và bật cười nói:
- Cây Baobap của ông, trông hơi giống cây bắp cải...
- Ồ!
Thế mà tôi đã rất đỗi tự hào về bức vẽ những cây Baobab!
- Cáo của ông... hai tai nó... trông hơi giống hai cái sừng...và lại quá dài!
Cậu lại bật cười lần nữa.
- Cậu không công bằng, cậu bạn nhỏ ơi, tôi vốn chẳng biết vẽ gì ngoài con trăn kín và con chăn mở mà.
- Ồ! Được cả thôi – Cậu nói - Trẻ em hiểu cả mà.
Thế rồi tôi phác chì một cái rọ mõm. Và lòng tôi se lại khi đưa nó cho cậu:
- Cậu có những dự định gì mà tôi không được rõ...
Nhưng cậu không trả lời tôi. Cậu chỉ bảo:
- Ông biết không, ngày tôi rơi xuống Trái Đất... mai đã là ngày kỷ niệm rồi...
Rồi, sau một lát im lặng cậu nói tiếp:
- Tôi đã ngã xuống ở rất gần đây...
Và cậu đỏ mặt.
Một lần nữa, chẳng hiểu tại sao, tôi cảm khổ một nỗi buồn kỳ dị. Trong khi một câu hỏi buột ra:
- Thế ra không phải chỉ là tình cờ mà, buổi sáng hôm tôi quen cậu, tám ngày trước, cậu đang lang thang như thế, một mình, cách xa hàng nghìn nghìn dặm nơi người ở! Cậu đang quay lại điểm mà cậu đã rơi xuống phải không? (*)
Hoàng tử nhỏ lại đỏ mặt.
Và tôi nói thêm, trong ngập ngừng:
- Là vì, có lẽ, vì ngày kỷ niệm chăng?
Hoàng tử nhỏ lại đỏ mặt. Cậu không bao giờ trả lời những câu hỏi, nhưng, khi người ta đỏ mặt, như thế có nghĩa là "đúng", phải không?
- Ôi! - Tôi nói với cậu - Tôi sợ…
Nhưng cậu đáp lời tôi:
-Giờ ông phải làm việc thôi. Ông phải quay lại với động cơ của mình. Tôi sẽ đợi ông ở đây. Tối mai hãy quay về nhé...
Nhưng tôi vẫn không yên tâm. Tôi nhớ tới cáo. Người ta có nguy cơ khóc một chút nếu họ đã để ai đó thuần hoá mình...
---
Chú thích của người dịch
« la chute » : có nghĩa là sự rơi, sự ngã ; còn có nghĩa là sự sa ngã, sự sụp đổ.
CHƯƠNG 26
Có, bên cạnh cái giếng, một bức tường đá cũ kĩ đổ nát. Khi trở lại sau công việc, chiều tối hôm sau, tôi thoảng thấy từ xa Hoàng tử nhỏ của mình ngồi trên đó, đôi chân thõng xuống. Và tôi thoáng nghe cậu nói:
- Thế cậu chẳng nhớ gì sao? – Cậu nói - Hoàn toàn không phải ở chỗ này đâu!
Hẳn một giọng nói khác đã trả lời cậu chẳng chút hoài nghi, vì cậu đáp lại:
- Phải! Phải! Đúng là ngày ấy, nhưng không phải chỗ này...
Tôi rảo bước về phía bức tường. Tôi vẫn không nhìn thấy mà cũng chẳng nghe thấy một ai. Nhưng Hoàng tử nhỏ đáp lời lần nữa:
- ... Tất nhiên rồi. Cậu cứ xem nơi nào bắt đầu có những dấu vết của tôi trên cát. Cậu chỉ việc đợi tôi ở đấy. Tôi sẽ đến đêm nay.
Tôi còn cách bức tường hai mươi mét nhưng vẫn chẳng nhìn thấy gì.
Hoàng tử nhỏ lại cất tiếng, sau một lát im lặng:
- Nọc độc của cậu có tốt không? Cậu chắc là không làm tôi đau lâu chứ?
Tôi sững lại, trái tim se thắt, nhưng tôi vẫn chưa biết hiểu gì.
- Bây giờ, cậu hãy đi đi – Cậu nói - Tôi muốn trở xuống.
Thế là tôi hạ mắt mình nhìn xuống phía chân tường, và tôi nhảy dựng lên! Nó ở đó, ngóc đầu lên phía Hoàng tử nhỏ, một giống rắn vàng có thể giết chết bạn chỉ trong ba chục giây. Vừa lục túi tìm khẩu súng lục, tôi vừa chạy tới, nhưng, nghe tiếng động của tôi, rắn ta nhẹ nhàng trườn vào trong cát, như thể một tia nước biến mất, và, chẳng quá gấp gáp, lách mình giữa các tảng đá với một âm thanh nhè nhẹ của kim loại.
Tôi đến bên bức tường vừa lúc kịp đỡ cậu bé Hoàng tử nhỏ trong vòng tay, cậu trắng bệch như tuyết.
- Chuyện gì thế này! Giờ thì cậu lại chuyện trò với rắn!
Tôi tháo chiếc khăn choàng vàng ròng cậu vẫn luôn quàng. Tôi dấp nước lên thái dương cậu và cho cậu uống chút nước. Và lúc đó, tôi không dám hỏi thêm cậu điều gì nữa. Cậu trầm nghiêm nhìn tôi và quàng hai tay ôm cổ tôi. Tôi cảm nghe nhịp tim cậu đập như tiếng tim của một con chim hấp hối, khi bị trúng đạn súng săn. Cậu bảo tôi:
- Tôi rất mừng vì ông đã tìm ra cái thiếu thốn ở động cơ. Giờ ông có thể về nhà...
- Làm sao cậu biết ?
Tôi vừa lúc định báo cho cậu biết là, chẳng chút kỳ vọng nào, mà tôi lại thành công !
Cậu không đáp gì lại câu hỏi của tôi, chỉ thêm:
- Tôi cũng vậy, ngày hôm nay, tôi trở về nhà mình...
Rồi, vẻ muộn sầu:
- Xa hơn nhiều lắm... Khó hơn nhiều lắm...
Tôi cảm giác rõ rệt vừa xảy ra một việc gì dị thường. Tôi siết chặt cậu trong vòng tay như một em bé, nhưng tuồng như cậu đang chảy trượt thẳng xuống một vực thẳm mà tôi lại không thể làm gì để níu giữ ...
Ánh mắt cậu nghiêm trang, lạc vào rất xa xăm:
- Tôi có con cừu của ông. Và tôi có cái hòm cho con cừu. Và tôi có cái rọ mõm...
Và cậu mỉm cười u sầu.
Tôi đợi một lúc lâu. Tôi cảm thấy cậu đang ấm dần lên từng chút một:
- Cậu bạn nhỏ bé ơi, cậu đã sợ hãi...
Cậu đã sợ, dĩ nhiên rồi! Nhưng cậu cười dịu dàng:
- Tôi sẽ còn sợ nhiều hơn vào tối nay...
Một lần nữa tôi lại thấy ớn lạnh bởi cảm giác không thể cứu vãn. Và tôi hiểu ra mình không thể chịu nổi ý nghĩ rồi đây sẽ không bao giờ còn nghe được tiếng cười này. Tiếng cười ấy với tôi như một nguồn nước trong sa mạc.
- Cậu bạn nhỏ ơi, tôi muốn vẫn được nghe cậu cười...
Nhưng cậu bảo tôi:
- Đêm nay, là đúng một năm. Ngôi sao của tôi sẽ tìm đúng ở bên trên chỗ tôi đã rơi xuống năm trước...
- Cậu bạn nhỏ ơi, phải chăng đó chỉ là cơn ác mộng, câu chuyện con rắn với cuộc hẹn gặp và ngôi sao này...
Nhưng cậu không trả lời câu hỏi của tôi. Cậu lại bảo:
- Cái gì quan trọng, cái đó không thể nhìn thấy...
- Hẳn nhiên rồi...
- Giống như bông hoa của tôi. Nếu ông yêu một bông hoa ở trên một ngôi sao, thật ngọt ngào, ban đêm, khi ông nhìn ngắm bầu trời. Tất cả các ngôi sao đều nở hoa.
- Hẳn nhiên rồi...
-
Giống như nước vậy. Nước ông cho tôi uống giống như âm nhạc, bởi đó là tiếng hát của ròng rọc và sợi dây... ông còn nhớ không... thật ngọt lành.
- Hẳn nhiên rồi...
- Ông sẽ nhìn ngắm, ban đêm, những vì sao. Nơi tôi sống quá nhỏ bé nên tôi chẳng thể chỉ cho ông ngôi sao của mình. Thế lại càng hay. Ngôi sao của tôi, với ông sẽ là một trong mọi ngôi sao. Và thế là, tất cả các vì sao, ông sẽ thích ngắm nhìn cả... Tất cả chúng sẽ đều trở thành bạn của ông. Và tôi sắp tặng ông một món quà ...
Cậu lại cười.
- A! Cậu bạn nhỏ, cậu bạn nhỏ ơi, tôi yêu tiếng cười này làm sao!
- Đúng thế đó là món quà của tôi... như là dòng nước vậy...
- Cậu muốn nói điều gì cơ?
- Những ngôi sao có ý nghĩa khác nhau với mỗi người. Với một số người, những người lữ hành, các vì sao là kẻ dẫn đường. Với một số người khác, chúng chẳng là gì hơn ngoài những đốm sáng lấp lánh. Đối với các nhà bác học chúng là những bài toán. Đối với nhà kinh doanh chúng là vàng. Nhưng với mọi người, tất cả các vì sao đều câm lặng. Còn ông, ông sẽ có những ngôi sao mà chẳng ai có cả...
- Cậu muốn nói điều gì cơ?
- Khi ông nhìn ngắm bầu trời, ban đêm, bởi tôi đang sống trên một ngôi sao nào đó, bởi tôi đang cười trên một trong những vì sao, nên với ông tất cả các vì sao đều cười. Ông sẽ có, mình ông, những ngôi sao biết cười!
Và cậu lại cười.
- Và khi ông đã khuây khỏa (người ta đều rồi sẽ nguôi ngoai), ông sẽ thấy vui lòng vì đã quen biết tôi. Ông mãi mãi là bạn của tôi. Ông sẽ muốn cười với tôi. Rồi đôi khi ông mở cửa sổ ra, như thế, chỉ để cảm thấy vui thôi... Và những người bạn của ông sẽ lấy làm lạ khi thấy ông cười lúc ngước ngắm bầu trời. Thế là ông sẽ nói với họ: "Phải, những vì sao, chúng luôn khiến tôi cười!" Và họ sẽ nghĩ là ông phát điên. Hoá ra tôi đã chơi khăm ông...
Rồi cậu lại cười.
- Xem như tôi đã tặng ông, thay vì những ngôi sao, là hàng tá những chuông nhỏ biết cười...
Và cậu cười. Rồi cậu trở nên nghiêm nghị lại:
- Đêm nay... ông biết đấy... đừng đến nhé.
- Tôi sẽ không rời cậu đâu.
- Tôi sẽ vẻ dường như đau lắm... Tôi sẽ vẻ dường như chết đến nơi. Như vậy đấy. Đừng đến chứng kiến cảnh đó, nào có đáng gì phải vậy...
- Tôi sẽ không rời cậu đâu.
Nhưng cậu tỏ vẻ lo lắng:
- Tôi nói với ông điều này... một phần cũng bởi vì rắn. Không được để nó cắn ông... Loài rắn, chúng bất nhẫn lắm. Chúng có thể cắn chỉ để vui thôi...
- Tôi sẽ không rời cậu đâu.
Nhưng có cái gì đó làm cậu yên tâm:
- Đúng là nó không đủ nọc độc cho lần cắn thứ hai...
Tối hôm ấy, tôi không trông thấy cậu ra đi. Cậu đã thoát đi không một tiếng động. Khi tôi đã đuổi kịp được cậu rồi, cậu bước quả quyết, thật nhanh. Cậu chỉ nói với tôi:
- A! Ông đây rồi...
Và cậu nắm lấy tay tôi. Nhưng cậu tự giằn vặt lần nữa:
- Ông đã sai lầm rồi. Ông sẽ đau khổ đấy. Tôi sẽ có vẻ chết nhưng không phải thật đâu...
Tôi, tôi im lặng.
- Ông hiểu mà. Nó quá xa. Tôi không mang nổi thân thể này cùng. Nó quá nặng.
Tôi, tôi im lặng.
- Nhưng nó cũng sẽ chỉ như cái vỏ cũ kĩ bỏ đi. Chẳng việc gì phải buồn vì những cái vỏ cũ...
Tôi, tôi im lặng.
Cậu có vẻ hơi nản. Nhưng cậu gắng lần nữa:
- Sẽ khả ái lắm, ông biết mà. Tôi cũng vậy, tôi sẽ ngắm nhìn những vì sao. Tất cả các vì sao đều sẽ trở thành những cái giếng với ròng rọc han rỉ. Tất cả mọi ngôi sao sẽ rót cho tôi uống...
Tôi, tôi im lặng.
- Sẽ thật sự rất vui! Ông sẽ có năm trăm triệu chuông nhỏ, còn tôi sẽ có năm trăm triệu nguồn nước...
Rồi cậu cũng lặng lời, bởi cậu sắp khóc...
- Kia rồi. Hãy để tôi bước đi một mình thôi.
Và cậu ngồi xuống vì sợ. Rồi cậu nói:
- Ông biết đấy... đoá hoa của tôi... tôi có trách nhiệm với nàng! Nàng quả thật yếu ớt! Nàng quả thật ngây thơ! Nàng chỉ có bốn cái gai chẳng đáng gì để phòng tự vệ hòng chống trọi với đời...
Tôi, tôi ngồi xụp xuống bởi không thể giữ mình đứng được nữa. Cậu nói:
- Đây rồi... Chỉ có thế thôi...
Cậu lại lưỡng lự thoảng chút, rồi cậu đứng lên. Cậu tiến một bước. Còn tôi, tôi sững lặng.
Chẳng có gì khác ngoài một loáng chớp màu vàng gần mắt cá chân cậu. Cậu đứng bất động một lát. Cậu không kêu lên. Cậu ngã xuống nhẹ nhàng như một thân cây. Cả một tiếng động nhẹ cũng không có, bởi vì cát.
CHƯƠNG 27
Và bây giờ đúng vậy, sáu năm đã trôi qua... Trước đây tôi chưa bao giờ kể lại câu chuyện này. Những đồng chí gặp lại tôi đã rất vui mừng vì thấy tôi trở về sống sót. Tôi đau buồn nhưng đã nói với họ: "Đó là vì mệt..."
Giờ thì tôi đã thoáng chút nguôi ngoai. Nghĩa là... chưa phải hoàn toàn. Nhưng tôi biết hẳn cậu đã trở về tinh cầu của mình, vì, vào rạng sáng hôm sau, tôi đã không tìm thấy thân xác cậu. Thân xác ấy chẳng nặng nề là bao... Và tôi thích ban đêm lắng nghe các vì sao. Chúng như năm trăm triệu cái chuông nhỏ...
Nhưng rồi lại có điều bất thường xảy ra. Cái rọ mõm, khi vẽ cho Hoàng tử nhỏ, tôi đã quên không vẽ thêm một dây da! Cậu sẽ không thể nào buộc nó vào con cừu được. Thế là tôi tự hỏi: "Chuyện gì đã xảy ra trên tinh cầu ấy? Có lẽ nào con cừu đã ăn mất đóa hoa chăng..."
Đôi khi tôi tự nhủ: "Chắc chắn là không! Hoàng tử nhỏ đêm nào cũng đậy nàng hoa của mình dưới bầu kính, và cậu trông chừng con cừu thật cẩn thận..." Thế là tôi thấy hạnh phúc. Và tất cả các vì sao đều mỉm cười dịu dàng.
Khi thì tôi tự nói: "Mọi người ai cũng có một lần lơ đãng, và thế là đủ! Cậu đã quên mất, một đêm nào đó, đậy bầu kính, hoặc con cừu lẻn ra không một tiếng động trong đêm..." Thế là những chuông nhỏ đều biến thành nước mắt!...
Đó là một bí ẩn thật sự lớn lao. Với bạn, người cũng yêu Hoàng tử nhỏ, cũng như với tôi, cả vũ trụ này sẽ chẳng còn như cũ nếu như ở đâu đó, không ai biết ở đâu, một con cừu mà chúng ta không biết đã, có hay không, ăn một đoá hoa hồng...
Hãy ngước ngắm bầu trời. Hãy tự hỏi: "Con cừu đã ăn hay chưa một đóa hoa?" Và bạn sẽ thấy dường như tất cả đều thay đổi...
Và không một người lớn nào hiểu được chuyện ấy quan trọng đến nhường nào!
END
Đây là, đối với tôi, là phong cảnh đẹp nhất và buồn nhất trên thế giới. Nó có cảnh quan giống như bức tranh cuối cùng, nhưng tôi vẫn vẽ lại nó thêm một lần nữa để chỉ bày cho bạn rõ ràng hơn. Chính nơi đây Hoàng tử nhỏ đã xuất hiện trên Trái Đất, để rồi biến mất.
Xin nhìn thật kỹ quang cảnh này để chắc chắn nhận ra nó ngay, nếu có ngày bạn tới Châu Phi, trong sa mạc. Và, nếu bạn chợt tình cờ băng qua nơi đó, tôi năn nỉ bạn rằng, xin đừng vội vàng đi, xin nán đợi một chút ngay dưới ngôi sao này! Nếu bấy giờ một cậu bé đi về phía bạn, nếu cậu ấy cười, nếu cậu ấy có mái tóc vàng kim, nếu cậu ấy không trả lời những câu hỏi, bạn sẽ đoán chắc ra cậu ấy là ai. Nếu vậy xin tử tế! Đừng bỏ tôi buồn đến dường này: xin hãy viết cho tôi ngay rằng cậu ấy đã trở lại...
-----
Bản dịch CC. 24.01.2014
Ảnh: trong Le petit prince của tác giả Antoine de Saint-Exupéry
PHỤ CHÚ 1
Antoine de Saint-Exupéry
« Tôi đã rất thích bắt đầu câu chuyện này như kiểu một câu chuyện thần tiên. Tôi đã rất thích nói: Ngày xửa ngày xưa,… »
(…)
« Tôi cần được thứ lỗi bởi những trẻ em vì đã tặng cuốn sách này cho một người lớn. … »
(…)
« Bởi tôi không muốn người ta đọc cuốn sách của mình một cách hời hợt. »
********
Không ai có thể khẳng định Le petit prince ra đời vào thời điểm nào, khi mà câu chuyện được mở đầu : « Hồi lên sáu tôi đã nhìn thấy… », và được khép lại: « Và bây giờ đúng vậy, sáu năm đã trôi qua...»
Nên nếu như, các nhà tâm lý học có thể phân tích, con trăn nuốt chửng con mồi mà cậu bé Antoine de Saint-Exupéry sáu tuổi ấy đã nhìn thấy, trong cuốn sách đời kể về cảnh rừng rậm cuộc sống – với tựa đề « những câu chuyện có thật », không gì hơn là cái chết đã nuốt chửng người cha của cậu bé, hai năm trước đó ; mà cũng chính con trăn thần chết ấy đã cướp mất em trai cậu – Francois, và người chị Marie-Madeleine, mười mấy năm sau.
Hay, nếu như các chuyên gia phân tích văn học có thể viết rằng, nhiều năm sau cái ngày sáu tuổi, Antoine de Saint-Exupéry đã sớm chứng kiến con trăn phát xít nuốt chửng con voi châu âu kềnh càng, ẩn kín trong cái mũ kinh hoàng của thế chiến đệ nhị.
Thì cuộc đời của tác giả cần được lần lại theo thời gian.
***********
Đúng vậy, Antoine Marie Jean-Baptiste Roger de Saint-Exupéry, thường được biết với tên Antoine de Saint-Exupéry, hay sau này được bạn hữu thân mật gọi là Saint-Ex, ra đời ngày 29 tháng 6 năm 1900, trong một gia đình quí tộc địa phương lâu đời. Cha ông, một chuyên viên công ty bảo hiểm, nhà buôn cổ phiếu, mất năm 1904 vì chứng đột quị.
Sau biến cố ấy, nuôi dưỡng năm người con một mình, bà Marie de (Fonscolombe) Exupéry (1875- 1972), mẹ của ông, một nghệ sĩ dương cầm và một thiếu phụ giàu hiểu biết, vào năm 1909, quyết định đưa các con đến Ain nương nhờ người chị.
Giữa những tòa lâu đài, lâu đài Saint-Maurice-de-Rémens của bà dì và lâu đài Moole ở Var của bà ngoại, cùng với hai chị gái, một em trai và cô em gái út, « ông hoàng mặt trời » bé nhỏ ấy đã sống những năm tháng trong môi trường đầy đủ sự ươm mầm bởi tình yêu, nghệ thuật và tri thức.
Hoàng tử nhỏ hiển hiện lên một tuổi thơ nhiều niềm vui hơn là đau đớn. Nhưng những vết thương lòng thẳm sâu của cậu bé đã để lại dấu vết trên những nét vẽ chì ở tuổi vị thành niên. Các phác thảo, «chỗ này Hoàng tử nhỏ quá lớn. Chỗ kia cậu lại quá nhỏ», đến tận nhiều năm sau này mới được công bố, một số bức được sửa chữa, một số bức chưa bao giờ được đặt vào các tác phẩm đã in. (*)
Trong thế chiến đệ nhất (1914-1918), Antoine de Saint-Exupéry theo học ở các trường dòng ở Montgré, ở Le Mans, và trường Công giáo ở Thụy Sĩ. Sau khi thi rớt trường dự bị đại học, chàng thanh niên đăng ký vào khoa kiến trúc tại École des Beaux-Arts (Trường cao đẳng Mỹ thuật).
Năm 21 tuổi, Antoine ra nhập nghĩ vụ quân sự và được điều đến Strasbourgh để dự khóa huấn luyện phi công. Chàng bay chuyến đầu tiên trên chiếc máy bay Sopwith F-CTEE, đó là ngày 9 tháng 7 năm 1921.
Năm 1922, với bằng phi công, Antoine de Saint-Exupéry được đề nghị gia nhập không quân, nhưng chịu sự ảnh hưởng của gia đình người vợ chưa cưới - nữ văn sĩ Louise de Vilmorin, chàng phải quay trở về Paris, chấp nhận một công việc bàn giấy. Viết lách đã đến với chàng như vậy.
Không mấy lâu sau, cuộc đính hôn với nàng văn Louise de Vilmorin tan vỡ, mà chàng cũng chẳng thành công trong viết lách hay kinh doanh. Thử đủ các loại nghề, từ quản thủ thư viện, cho tới buôn bán động cơ, năm 1926, Saint-Exupéry quyết định quay lại với nghề lái, cùng tác phẩm đầu tay L’aviateur (« Người lái máy bay ») đăng trên tạp chí văn học Le Navire d’argent.
Ba năm tiếp theo, chàng trai trẻ làm việc chuyên chở bưu phẩm, từ Toulouse đến Darkar, cho công ty thương mại hàng không Aéropostale Bắc Phi. Antoine de Saint-Exupéry trở thành một trong những phi công tiên phong thực hiện những chuyến vận chuyển bưu phẩm quốc tế bằng đường không đầu tiên. Với những chiếc máy bay còn trang bị quá nghèo nàn, khiến các phi công hầu như phải bay bằng kinh nghiệm và bản năng, Antoine đã đôi lần chết hụt. Cũng vì lẽ đó, về sau, ông đã từng phàn nàn rằng, những người lái loại máy bay hiện đại tuồng giống các nhân viên kế toán hơn là những phi công thực thụ.
Cuối năm 1927, Antoine de Saint-Exupéry được chỉ định tới một sân bay ở Cap Juby – Maroc, nằm sâu giữa sa mạc Sahara, với nhiệm vụ cải thiện mối quan hệ của công ty với những người ly khai gốc Moor và những người Tây Ba Nha. Chớm nở từ khi ấy, tình yêu sâu sắc vẻ đẹp hoang sơ đầy cô độc của sa mạc, được thấy trong tác phẩm cuối cùng Le petit prince (Hoàng tử nhỏ) và những bản thảo còn dang dở của La citadelle (Thành Trì) sau này.
Năm 1929, Saint-Exupéry được điều đến Nam Mỹ để điều hành hãng bưu phẩm hàng không Aerolíneas Argentinas. Đây là lúc nhà văn 29 tuổi này xuất bản tiểu thuyết đầu tiên : Courrier Sud (Thư phương Nam), mà vào năm 1937, đã được đạo diễn Robert Bresseo dựng thành phim.
Courrier Sud kể về lòng dũng cảm của thế hệ phi công bưu chính đầu tiên, những người bất chấp hiểm nguy trong cuộc đua tranh tốc độ, đã chiến thắng các đồng nghiệp đưa thư theo đường tàu hỏa và đường thủy. Cũng trong cuốn tiểu thuyết này, người ta thấy bóng dáng cuộc tình duyên lãng mạn nhưng bất thành của chàng với nàng văn sĩ Louise de Vilmorin.
Chính nhờ các kinh nghiệm của việc chở thư tín qua dãy Andes vào những năm tháng sống ở Nam Mỹ này, mà tiểu thuyết thứ hai Vol de Nuit (Bay đêm) ra đời.
Lúc này, nhà văn 31 tuổi ấy đã viết : « ‘Chúng ta không cần đến sự vĩnh cửu.’ - ông nghĩ – ‘Điều mà chúng ta cần là không để những hành động và sự việc đột nhiên mất đi ý nghĩa thực sự của chúng. Nhờ đó, thế giới xung quanh ta sẽ mở toang ra từ mọi phía.’» Và như thế, kể về Rivière, một phụ trách sân bay kiên nghị, đã từ bỏ tất cả toan tính cá nhân để đặt việc chuyên chở thư tín như là mục đích quan trọng hơn cả của đời mình, Bay đêm đoạt giải thưởng lớn Prix Femina của Văn học Pháp, và lập tức trở thành một best-seller trên bình diện quốc tế. Hai năm sau, 1933, Bay đêm được dựng thành phim với sự tham gia của các ngôi sao điện ảnh nổi tiếng: Clark Gable Butler và Lionel Barrymore.
Năm 1931, đúng thế, là một năm nở rộ những đóa hồng của cuộc đời Saint-Exupéry. Cùng với thành công của Bay đêm là việc chuyển sang làm phi công thử nghiệm cho hãng Air France và một số công ty hàng không khác. Trước đó, vào tháng 4, là lễ thành hôn của ông với nàng Consuelo Suncin. Consuelo cũng là một nhà văn người Salvador, đã từng có một đời chồng. Tiếc là, cuộc hôn nhân này gặp rất nhiều sóng gió, khi Antoine thường xuyên phải xa nhà và quan hệ với nhiều phụ nữ khác, trong có Hélène de Vogüé, người sau này được thừa hưởng di sản văn học của Saint-Exupéry và là tác giả một cuốn tiểu sử về ông, với bút danh Pierre Chevrier.
Và đóa hoa chớm nở cuối cùng, trong năm 1931 ấy, là cuộc gặp gỡ với nhà văn, nhà báo, nhà phê bình nghệ thuật 55 tuổi : Léon Werth. Một tình bạn nồng thắm, với những hoa trái còn hơn thế nữa, tới tận cuối đời đã nảy sinh từ đó.
Vào năm Saint-Exupéry 34 tuổi, do công ty hàng không gặp nhiều khó khăn, ông chuyển sang làm phóng viên cho báo Paris-Soir. Năm 1934, ông đến Việt Nam; năm 1935, ông đến Moskva.
Thế là, chúng ta đang ở vào ngày 29 tháng 12 năm 1935. Antoine de Saint-Exupéry quyết định tham gia một cuộc thi đua trong ngành hàng không Pháp: cố gắng phá vỡ kỷ lục thời gian 98 giờ 52 phút bay từ Paris đến Sài Gòn được lập ra hồi đầu năm.
Chuẩn bị một cách vội vàng, thiếu nhận thức về tầm quan trọng của các tuyến đường, không tham khảo bạn đồng nghiệp Jean Colas để chuẩn bị bản đồ, không trang bị đài phát thanh để tiết kiệm tiền mua xăng, Antoine de Saint-Exupéry khởi động chiếc máy bay Caudron Simoun, 7h sáng tại Bourget.
Đêm ngày 30 tháng 12, sau khi bay được 3700 km, chiếc máy bay rơi ở Libya, cách Caire 200 km, giữa mênh mông sa mạc. Ông và thợ máy của mình đã đi bộ ròng rã nhiều ngày cho tới khi bắt đầu tuyệt vọng về « một tinh cầu không người ở ». Một cách diệu kỳ, họ được bắt gặp bởi một đoàn lữ hành người Ả Rập Bedouin, lúc đang sắp sửa chết vì khát. Khi được đưa trở về Paris, sau hàng loạt các bài báo đăng tin về sự biến mất của mình, Antoine de Saint-Exupéry được chào đón như một anh hùng.
Tình hình biến động ở Châu Âu ngày một tăng cao. Antoine de Saint-Exupéry đã mô tả nhiều sự cố khẩn cấp ở Moscow và cuộc nội chiến tại Tây Ba Nha qua một loạt bài viết trên Paris-Soir trong suốt năm 1936. Thời gian này, vét hết số tiền còn lại, ông mua một chiếc máy bay hiệu Caudron Simoun khác và sống cuộc đời phiêu bạt. Một năm sau, chiếc máy bay này cũng gặp tai nạn, rớt tại Guatemala, ông bị chấn thương nghiêm trọng.
Trong thời gian Saint-Exupéry phục hồi sau các tai nạn nặng nề ấy, André Gide đề nghị ông viết một quyển sách nữa về nghề lái máy bay. Tiểu thuyết Terre des Hommes (Xứ con người – tên tiếng Anh : Wind, sand and stars) ra đời, năm 1939, thành công vang dội, đoạt giải Grand Prix du Roman của Viện Hàn Lâm Pháp, và giải National Book Award ở Mỹ, một best-seller tiếp theo.
******
Bây giờ là năm 1939 - 1940, đúng thế, bản nhạc kịch opera ba lê của đội quân người đốt đèn trên cả sáu châu lục đã đến điểm cao trào. Thế chiến thứ hai bùng nổ với tất cả đau thương và kinh hoàng của nó. Antoine de Saint-Exupéry gia nhập quân đội. Mặc dù không đủ khả năng lái máy bay chiến đấu do nhiều chấn thương trước đó, ông vẫn được giao nhiệm vụ thực hiện những chuyến bay trinh sát cho Armée de l'Air (không quân Pháp).
Tháng tháng 5 năm 1940, từ máy bay, Antoine Saint-Exupéry chứng kiến từng đoàn xe tăng Đức tiến vào tấn công vùng Arras của nước Pháp.
Trong bức vẽ có kèm những dòng thư viết tay gửi cho Léon Werth lúc này, Hoàng tử nhỏ, đứng trên đám mây Boloch 174 (một loại máy bay chiến đấu của không lực Pháp), đang phóng cái nhìn u uất đầy giận dữ; từ đằng xa, giữa đám mây nhỏ xíu mang tên Messerschmitt (một loại máy bay Đức), một con quỷ trong bộ trang phục phủ kín hiện ra như muốn mang lại cho thế giới một cái gì thật ghê tởm và hãi hùng ; bên dưới họ là tiểu hành tinh viền bằng một đường cong quá mức, hàng cây to những muốn che khuất đám khói từ dãy nhà bị đốt; hiểm họa lớn đang tiến lại thật gần, con cừu đực già có sừng không xa mấy nàng hồng mong manh, vươn lên giữa đám cỏ hoa, ngây ngô và vô vọng. (*)
Năm 1942, nước Pháp thất thủ. Rời quê hương trong quang cảnh điêu tàn và hỗn loạn, mang theo mình nhiều đả kích nặng nề bởi những người đồng hương vì đã không ủng hộ lực lượng Nước Pháp Tự Do của De Gaulle ở London, Antoine de Saint-Exupéry tới tị nạn tại Mỹ. Ở đây, Pilote de guerre (Phi công thời chiến) ra đời.
Tiếng vang của Terre des hommes còn chưa dứt, được xuất bản với tên tiếng Anh là Flight to Arras (Bay tới Arras), Pilote de guerre như một trái pháo nổ rền trên nước Mỹ, mở đầu cho sự bùng nổ của một cuộc cách mạng dư luận tại nước này. Đứng trong hàng best-seller trong suốt sáu tháng liền, cuốn sách mô tả lại chuyến bay tuyệt vọng của những phi công Pháp trên giới tuyến quân địch trước khi nước Pháp thực sự phải đầu hàng. Nhờ cuốn sách, đột ngột, người Mỹ chợt hiểu ra, nước Pháp tựa cây cung quá căng trong phát bắn cuối cùng, đã phản vệ với toàn bộ sức lực của con thú nhỏ không chịu thụ động để bị đàn áp.
« Giá mà chỉ cần đi một phút là đến nước Pháp để nhìn ngắm cảnh hoàng hôn. Thật không may là nước Pháp ở quá xa… » (trích Hoàng tử nhỏ)
Lúc này, mặc dù đang ở đỉnh điểm của những ấn phẩm thành công, nhiều sự kiện đau buồn và thương tâm đổ đến với Saint-Exupéry một cách dồn dập. Lưu vong, không thích New-York, cảm thấy lạc lõng với lối sống xung quanh, lên án lập trường chính trị và quân sự của người Mỹ, nhung nhớ bạn bè, hồi ức xót thương về các chiến hữu – những người không bao giờ còn có thể gặp lại, những vết thương trên thân thể nhức nhối, những cơn đau thận quấy rối đêm ngày, những trận đau nửa đầu dường như vô tận. Không có thời điểm nào trong cuộc đời của mình, Antoine de Saint-Exupéry cô đơn và tuyệt vọng hơn lúc này.
« Hỡi người Pháp, hãy đoàn kết lại để mà phục vụ» - những lời kêu gọi đầy khẩn thiết, với một giọng nói hào hùng, đã làm rúng động tâm can bao người đọc mãi về sau này, Letter à un otage (Thư gửi một con tin), viết cho Léon Werth, được ấn hành. Nhưng chúng ta đang ở vào tháng 2 năm 1943, vào thời điểm của các đả kích độc đoán và hoang mang, của hoảng loạn và suy đồi, người ta chưa thể nào hiểu được những chiều sâu tư tưởng và tình cảm cao quý ấy.
Tháng 4 năm 1943, Le petit prince (Hoàng tử nhỏ) xuất bản tại New York, và tháng 5 Antoine de Saint-Exupéry tái nhập không lực Pháp đóng ở Bắc Phi. Ông thậm chí chưa nhận được nhuận bút.
********
« Tự do và áp bức là hai mặt của cùng một điều tất yếu, nơi mà tồn tại điều này thì không thể tồn tại điều kia…» (trích Thành Trì, ấn bản năm 1948)
Đảo Cors, ngày 30 tháng 7 năm 1944, chỉ huy và nhà văn Antoine de Saint-Exupéry, bỏ xuống chiếc bút máy trên bản viết dang dở của tác phẩm La citadelle (Thành trì – tên tiếng Anh: The Wisdom of the Sands ) - ông đang ghi chép lại những phản ánh chân thực, sự quan tâm sâu sắc, cùng những tư tưởng then chốt đối với chính trị của mình, để chuẩn bị để thực hiện một nhiệm vụ liên quan đến việc thu thập thông tin về quân đội Đức ở thung lũng sông Rhone.
Trong chuyến bay đầu tiên kéo dài vài giờ, những khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời của ông đột nhiên hiện về. Saint-Exupéry thấy mình như một thợ cơ khí tại Didier Daurat, sau đó là loạt hồi ức về những người bạn, một số người, như Mermoz, Guillaumet..., đã qua đời một cách bi thảm. Ông nghĩ về Consuelo - vợ ông, và nàng Sylvia - người mà ông đã giao phó lại bản thảo "Hoàng tử nhỏ".
Trước chuyến kế tiếp, Saint-Exupéry đã quyết định viết một bức thư có giá trị... Bạn của ông, chỉ huy trưởng Gavoille, linh cảm thấy điều gì, đang cố gắng ngăn cản thiếu tá Ex - tên thân mật trong phi đoàn mà người ta gọi ông, thực hiện chuyến bay. Nhưng Saint-Exupéry không nghe.
Ngày 31 tháng 7 năm 1944, chiếc máy bay P-38 Lightning mang số hiệu F-5B-1-LO của thiếu tá Ex cất cánh.
Người ta không bao giờ còn trông thấy Antoine de Saint-Exupéry trở về thêm lần nữa.
****
Sự mất tích của Antoine de Saint-Exupéry là một bí hiểm không hồi đáp kéo dài sáu mươi năm. Cho tới năm năm 2004, các nhà nghiên cứu Pháp thuộc Cơ quan khảo cổ dưới nước đã xác nhận mảnh vụn của một chiếc P-38 Lightning được tìm thấy dưới đáy biển ngoài khơi Marseille vào năm 2000 thuộc chiếc máy bay mất tích của Antoine de Saint-Exupéry, và chiếc vòng tay bằng bạc có khắc tên người vợ của Antoine de Saint-Exupéry, mắc vào một mảnh quân phục phi công, tìm thấy trên biển phía Đông đảo Riou, Nam Marseille năm 1998, được coi là di vật cuối cùng của ông.
Khi những mảnh vỡ của một chiếc máy bay Messerschmitt của Đức cũng được tìm thấy ở vùng biển Marseille, người ta mở cuộc điều tra về phía quân đội Đức. Kết quả đợt điều tra được tường thuật lại trong cuốn Saint-Exupéry, l’ultime secret (« Saint-Exupéry, bí mật cuối cùng ») do Nhà xuất bản Rocher phát hành ngày 20 tháng 3 năm 2008, trong đó có kể :
Cựu phi công của chiếc máy bay Đức được tìm thấy, Horst Rippert, xác nhận đã bắn rơi một chiếc Lightning P-38 ở gần Marseille, nhưng ông luôn hằng hi vọng rằng chiếc máy bay mà ông đã bắn không phải chiếc máy bay của Antoine de Saint-Exupéry, người đã viết các tác phẩm mà ông rất yêu mến ngay từ hồi còn non trẻ.
****
Nhiều năm đã trôi qua, kể từ khi Saint-Exupéry ra đi với chiếc máy bay của ông, Le petit prince, với dịu dàng mướt mả không thể đong đo được như những bức vẽ màu nước, ngọt ngào và chân thành thấm thẳm vào tâm can như chất màu pastel, tinh tế và sâu sắc những thông điệp triết học ẩn dưới một câu chuyện trẻ em, đã trở thành một cuốn sách ngụ ngôn thiếu nhi được đọc nhiều nhất và được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới.
Nhưng nếu như vậy vẫn khiến người ta cảm thấy khó hình dung, thì có lẽ cần nên viết rằng, tính đến năm 2013, 70 năm sau lần xuất bản đầu tiên, Le petit prince, đã được bán (một cách chính thức) với những con số trên 150 triệu bản, được dịch ra 257 ngôn ngữ, có tính cả các ngôn ngữ bản địa và ngôn ngữ dân tộc, cùng với nhiều phiên bản dịch khác nhau cho cùng một ngôn ngữ. Với nhiều mục đích, đặc biệt là cho giáo dục, ngôn ngữ, chống nạn mù chữ…, các bản dịch và các phiên bản của Le petit prince được sử dụng ở nhiều dân tộc thiểu số trên thế giới, gần đây nhất ở Marioc, Tuared, Campuchia…
Năm 2005, Le Petit Prince được dịch sang tiếng Toba, một ngôn ngữ Amerindian của miền bắc Argentina, nơi mà cho tới lúc ấy chỉ chấp nhận một cuốn sách dịch từ tiếng nước ngoài duy nhất: Thánh Kinh.
*****
Hãy ngước ngắm bầu trời. Hãy tự hỏi: "Con cừu đã ăn hay chưa một đóa hoa?" Và bạn sẽ thấy dường như tất cả đều thay đổi...
Và không một người lớn nào hiểu được chuyện ấy quan trọng đến dường nào!
Antoine de Saint-Exupéry - Le petit prince
CC dịch
24.01.2014
---------
(*) Xem thêm
"Những bức hình đến giờ mới công bố"
Ảnh: Chân dung Antoine de Saint-Exupéry, tác phẩm của Pierre Ennanuel
PHỤ CHÚ 2
Cuốn sách giải mã cuộc hôn nhân sóng gió của tác giả
Cuốn sách The Little Prince author’s love letters (tạm dịch: Những bức thư tình của tác giả Hoàng tử bé) cho thấy một mối tình đẹp và lãng mạn, đã khơi dậy một trong những câu chuyện lâu đời và phổ biến nhất của văn học Pháp và thế giới. Sách cũng như là một hành động đánh dấu sự hòa giải, kết thúc những đấu tranh triền miên giữa phía người vợ Consuelo và những người thừa kế thuộc gia tộc của nhà văn.
Mối tình mãnh liệt và cuộc hôn nhân đầy sóng gió
Cuối mùa hè năm 1930, trong một buổi tiệc được tổ chức tại Trung tâm văn hóa Pháp ở Buenos Aires (Argentina), Consuelo Suncin - một nhà văn, nghệ sĩ người Salvador - đã được giới thiệu với nhà quý tộc, nhà văn, phi công Antoine de Saint Exupéry. Tiếng sét tình yêu đã ngay lập tức đánh trúng hai người. Saint Exupéry ấn tượng với vẻ đẹp dịu dàng và dáng hình nhỏ nhắn của cô gái Consuelo và đã mời bà cùng làm một cuộc dạo chơi bằng máy bay do chính ông cầm lái.
Consuelo Suncin de Sandoval vốn là một nghệ sĩ người Salvador. Bà đã từng có hai đời chồng trước khi đến với Saint Exupéry, trong đó người chồng thứ hai của bà - Enrique Gomez Carrillo (mất năm 1927) là một nhà văn nổi tiếng người Guatemala, và là bạn của nhiều nghệ sĩ tên tuổi trên thế giới như Oscar Wilde, Picasso, Dali hay Verlaine…
Năm 1931, Antoine kết hôn cùng Consuelo tại Nice. Ban đầu, mối quan hệ giữa hai vợ chồng rất tốt đẹp với một tình yêu say đắm và mãnh liệt dành cho nhau. Nhưng thời gian qua đi, tình cảm giữa họ cũng dần phai nhạt khi Saint - Exupéry thường xuyên xa nhà và ngoại tình với nhiều phụ nữ.
Ngày nhận giải thưởng lớn Prix Femina của văn học Pháp cho tác phẩm Vol de Nuit (Chuyến bay đêm), Saint Exupéry tổ chức ăn mừng sự kiện này cùng Consuelo, nhưng buổi tối cùng ngày hôm đó, ông bỏ lại người vợ ở nhà để đến gặp người tình Hélène de Vogué. Biết tin tức về nhiều vụng trộm bên ngoài của chồng, Consuelo đề nghị chồng li hôn nhưng luật sư của bà đã khuyên bà từ bỏ ý định. Consuelo chấp nhận duy trì mối quan hệ vợ chồng trên danh nghĩa với Antoine.
Saint Exupéry gặp lại Consuelo tại La Feuilleraie và giúp bà thoát khỏi vùng chiến sự đang bị đánh bom vào tháng 6/1940. Sau đó 2 năm, họ lại gặp nhau tại New York, và cùng sống trong một căn hộ tại khu vực Central Park. Sau này bà chuyển đến sống cùng ông tại Long Island, nơi nhà văn cho ra đời tác phẩm bất hủ Hoàng tử bé. Tác phẩm đã bán được khoảng hơn 200 triệu bản cùng 450 bản dịch khác nhau kể từ khi được xuất bản lần đầu vào năm 1943. Phần lớn tiểu thuyết Hoàng tử bé xoay quanh câu chuyện về chàng hoàng tử du hành giữa các vì sao bí ẩn với một bông hồng đẹp đẽ, tinh tế và mong muốn được quan tâm, bông hồng mà anh ta đang chăm sóc trên hành tinh quê hương của mình. "Bông hồng" ngoài đời thực của Saint-Exupery là Consuelo bởi những nét đặc trưng ở bà: xinh đẹp, kiêu sa, quyến rũ, nhưng cũng đầy thất thường.
Trong thời gian này, mặc dù Antoine và Consuelo sống gần nhau và cũng mong muốn nối lại tình cảm, nhưng những mối bất hòa và các cuộc cãi vã không ngừng đã đẩy quan hệ giữa hai người rơi vào tình trạng ngày càng căng thẳng, để rồi sau đó, đường ai nấy đi. Vào năm 1943, trước khi quay trở lại Lực lượng Pháp tự do tại châu Phi, Saint Exupéry đã viết cho Consuelo một lá thư, trong đó có đoạn: “Anh tin rằng mẹ con em sẽ sống hạnh phúc hơn khi không có anh, và anh nghĩ rằng, cuối cùng thì anh cũng đã tìm được sự bình yên trước cái chết...”.
Khi ở Alger, ông nhận được một bức thư dài từ Consuelo bày tỏ tình yêu tuyệt đối và nguyên vẹn mà bà vẫn dành cho người chồng đào hoa của mình. Đáp lại bức thư, Antoine cảm ơn tấm chân tình của vợ và viết: “Em hãy là hậu phương vững chắc của anh. Hãy dệt cho anh một chiếc áo choàng bằng tình yêu của em”.
Mặc dù cuộc sống hôn nhân gặp nhiều trắc trở như vậy, nhưng Saint Exupéry và Consuelo vẫn duy trì một mối liên hệ gắn bó. Antoine luôn cảm thấy phải có trách nhiệm với người vợ của mình. Trở về Pháp năm 1946, Consuelo sống tại Paris và Grasse - nơi bà qua đời vào năm 1979, thọ 78 tuổi. Trong hơn 30 năm đó, bà theo đuổi các hoạt động nghệ thuật và có những tác phẩm tưởng nhớ tới người chồng mất tích một cách bí ẩn của mình.
Một hành động hòa giải
Sau khi nhà văn Saint Exupéry mất tích đầy bí ẩn, một cuộc chiến pháp lí kéo dài 18 năm đã diễn ra giữa người vợ Consuelo và những người thừa kế thuộc gia tộc của nhà văn. Cuốn sách Những bức thư tình của tác giả Hoàng tử bé ra đời, đánh dấu sự hòa giải, kết thúc những đấu tranh triền miên trước đó.
Sách tập hợp hơn 160 bức thư và điện tín qua lại giữa nhà văn và người vợ, đi kèm với đó là chục bức phác thảo, các bức ảnh và những vật lưu niệm khác của họ.
Không có gì đáng ngạc nhiên nếu cuộc hôn nhân được cho là đầy khắc nghiệt, giữa một nhà quý tộc, nhà văn, phi công và nhà thám hiểm đầy phiêu lưu thất thường, với một nghệ sĩ có tinh thần mạnh mẽ, nhạy cảm và nhạy bén. Trong cuốn sách, có những đoạn thư như: “Consuelo thân yêu của anh, em không hiểu em đã làm cho anh đau khổ như thế nào," nhà văn viết. “Em đã khóc vì xúc động, em sợ bị đày ra khỏi trái tim anh”, Consuelo đáp lời. Giữa nhà văn và vợ đã có nhiều cuộc chia tay, sau đó mỗi người đều có những mối tình khác và lại trở về hòa giải với nhau.
Người viết tiểu sử Alain Vircondelet chia sẻ với tờ AFP: “Consuelo có một tính khí bộc phát, mà nhà văn lại là một người suy tư, trầm lắng. Nhiều cuộc tình của ông ấy không phải là dấu hiệu của một gã Don Juan, mà là sự thất bại trong tình cảm.” Tuy vậy, khi đọc một trong những bức thư cuối cùng của Saint-Exupery viết cho vợ, người đọc có thể thấy tình cảm tình thương chân thành của ông: “Consuelo, cảm ơn từ tận đáy lòng vì đã là vợ của anh… Nếu anh chẳng may chết đi, anh vẫn có người đợi chờ mãi mãi.”
Saint-Exupery tham gia lực lượng kháng chiến Pháp khi sống lưu vong ở Hoa Kì, đã mất tích ngay sau khi khởi hành chuyến bay do thám từ Corsica vào tháng 7 năm 1944. Không có bất kì bằng chứng nào vụ tai nạn được phát hiện cho đến năm 1998 khi một ngư dân Marseille kéo lên một chiếc vòng tay bằng bạc khắc tên nhà văn và vợ. Kể từ đó, gia đình dòng tộc của Saint-Exupery không mảy may để tâm gì đến Consuelo và loại trừ cô ra khỏi câu chuyện về cuộc đời ông. Một thành viên trong gia đình nhà văn nói với người viết tiểu sử Paul Webster vào những năm 1990: “Kết hôn với người nước ngoài được coi là tệ hại hơn cả kết hôn với người Do Thái”, cho thấy cái nhìn nhiều định kiến của gia đình nhà văn.
Theo lời của Paul Webster, vợ nhà văn đã trả thù bằng cách trao một nửa bản quyền cho người làm vườn kiêm tài xế riêng Fructuoso Martinez khi bà qua đời vào năm 1979, cùng với một số lượng lớn các bức thư tình của nhà văn và bà.
Năm 2008, gia đình Saint-Exupery đã kiện thành công Martinez sau khi anh ta xuất bản một cuốn sách về mối quan hệ của Saint-Exupery và Consuelo mà không có sự cho phép của họ. Sáu năm sau, Martinez cũng kiện ngược lại và thành công buộc gia đình Saint-Exupery phải trả cho ông một phần doanh thu từ phiên bản phim hoạt hình của cuốn sách.
Việc xuất bản những bức thư tình thể hiện sự hòa giải giữa các đối thủ. Trong một thông cáo báo chí vào tháng trước thông qua nhà xuất bản Pháp Gallimard, hậu duệ của tác giả đã nói về “cuộc chiến pháp lí kéo dài 18 năm không có kết quả” trước khi họ đồng ý hợp tác trong dự án.
Học giả người Pháp Alain Vircondelet, một chuyên gia về nhà văn, nói rằng nhiều thư tình của nhà văn và vợ vẫn được giữ bởi vợ của người làm vườn, Martine Martinez Fructuoso sau khi ông này mất. “Cô ấy sở hữu một kho báu khổng lồ về Saint-Expury, và mỗi lần cô ấy kể cho tôi nghe về nó, tôi đã rất ngạc nhiên,” Vircondelet nói với AFP.
Điểm cốt lõi của những bức thư tình là một mối tình lãng mạn đã khơi dậy một trong những câu chuyện lâu đời và phổ biến nhất của văn học, và cội nguồn của nó có thể được nhìn thấy trong chính bức thư đầu tiên mà Saint-Exupery viết cho người vợ tương lai của mình:
“Anh nhớ một câu chuyện rất cũ, anh sẽ thay đổi nó một chút,” nhà văn viết, ngay sau khi hai người gặp nhau ở Buenos Aires.
“Có một cậu bé đã phát hiện ra một kho báu. Nhưng kho báu quá đẹp đối với một đứa trẻ mà đôi mắt cậu không biết làm thế nào để hiểu được vẻ đẹp ấy hoặc dang tay để giữ nó. Vì vậy, đứa trẻ càng ngày càng buồn bã.”
PHỤ CHÚ 3
Bài học Lớn từ Hoàng Tử Bé - Tìm (lại) sự sáng tạo của Tuổi thơ
“Ngày xửa ngày xưa, có một chàng hoàng tử sống trên một hành tinh không lớn hơn cậu là bao, và cậu cần có một người bạn.” Đó là cách mà Antoine de Saint-Exupéry muốn dùng để bắt đầu câu chuyện về Hoàng Tử Bé. Ông nói rằng: “Với những người thấu hiểu về cuộc sống, kiểu mở đầu như thế sẽ thật hơn bất kì cách nào khác.”
Nhưng ông đã không bắt đầu như vậy. Ông không thể làm thế. Bởi vì, bạn thấy đó, những người lớn sẽ không hiểu. Họ sẽ chẳng hiểu gì cả. Với họ, nếu hoàng tử bé là có thật thì phải có bằng chứng nào đó chứ. Tốt hơn hết là nên có số. Tiểu hành tinh B612 nghe có vẻ hợp lí đấy. Bây giờ chúng ta đã bắt đầu định hình được cậu. Còn tuổi của cậu thì sao? Chiều cao? Cân nặng? Mọi thứ rõ ràng hơn một chút rồi đó. Nhưng giọng cậu thì ra sao? Cậu thích chơi trò gì? Hay là cậu có sưu tập bướm không? Mỗi câu hỏi vặt vãnh không liên quan có thể làm sáng tỏ nhân vật của chúng ta hơn một chút.
Đó là ranh giới xuất hiện trong cuốn sách kinh điển của Saint-Exupéry, Le Petit Prince. Một mặt, chúng ta có trẻ con, những đứa giống như phiên bản trẻ con của người kể chuyện, những cậu bé được truyền cảm hứng bởi một đoạn văn trong sách động vật học để vẽ một con trăn phồng lên vì nuốt một con voi, hay như Hoàng Tử Bé trong tiêu đề sách, một người rất mong có một bức tranh con cừu để mang về hành tinh của cậu. Một con cừu, tốt nhất là ăn cây bao-báp chứ không phải hoa hồng.
Ở phía bên kia, chúng ta có những người lớn, những người nghĩ con trăn căng phòng kia trông như một cái mũ mềm cũ kĩ - không phải một cái mũ được may cẩn thận - những người hối thúc người kể chuyện của chúng ta theo đuổi một SỰ NGHIỆP THẬT SỰ, và khuyên bảo Hoàng Tử Bé về tầm quan trọng của việc đếm sao, tuân theo những thói quen hàng ngày, vâng lời, thắp đèn vào đúng giờ trong ngày, dù việc đó xảy ra mỗi phút một lần.
Trong thế giới của Saint-Exupéry, người lớn có vẻ như là một sinh vật phi lí, lúc nào cũng vội vàng đi về một nơi vô định, khăng khăng bám lấy những mục tiêu mà không có chút suy nghĩ nào - ngay cả khi họ chẳng hiểu tại sao mình lại theo đuổi những thứ đó. Và nhờ có người đàn ông bé nhỏ (petit gentilhomme), như cách mà người kể chuyện đã gọi cậu, và những người bạn thật thà của cậu, chú cáo và bông hoa hồng, chúng ta đã có được một chút thông thái về những điều quan trọng và không quan trọng, về những câu hỏi đáng để hỏi và câu nào thì không nên.
Việc phóng đại sự tương phản là một điều cần thiết (dù sao thì chúng ta vẫn đang trong vương quốc tưởng tượng cơ mà). Nhưng tư tưởng lớn hơn của Saint-Exupéry về sự sáng tạo và suy tư thì khó có thể bị suy diễn quá đà: khi chúng ta lớn lên, cách mà chúng ta nhìn về thế giới sẽ thay đổi. Rất hiếm người có thể giữ được cảm giác trầm trồ kinh ngạc, cảm giác về sự hiện hữu của ta trên đời, những niềm vui sống và vô tận những khả năng tồn tại trên thế giới này, những thứ vô cùng rõ ràng khi ta còn là trẻ con.
Khi lớn lên, chúng ta sẽ có thêm trải nghiệm. Chúng ta giỏi hơn trong việc kiểm soát bản thân. Chúng ta đòi hỏi nhiều hơn từ khả năng, suy tư và khát vọng. Nhưng bằng cách nào đó, chúng ta đã mất đi sự vô tư đón nhận thế giới một cách trọn vẹn. Những trải nghiệm giúp chúng ta thành công lại đe dọa, hạn chế trí tưởng tượng và cảm giác về những điều khả thi trong cuộc sống. Từ bao giờ mà những kinh nghiệm lại hạn chế trí tưởng tượng của một đứa trẻ như vậy?
Nhưng đó không có nghĩa là chúng ta không thể nhìn thấy một con trăn căng phồng thay vì một cái mũ, mà là vì chúng ta đã lựa chọn không làm thế. Hãy nghĩ về tuổi thơ của bạn. Nếu tôi hỏi về con phố mà bạn đã từng lớn lên ở đó, có rất nhiều khả năng là bạn sẽ nhớ vô cùng chi tiết. Màu sắc của những ngôi nhà. Tính cách của những người hàng xóm. Mùi vị của các mùa. Cảnh sắc của con phố thay đổi theo thời gian. Những nơi bạn hay chơi đùa. Những con đường bạn đã đi qua. Những chỗ bạn chẳng bao giờ dám bước tới. Tôi cược rằng bạn có thể kể hàng giờ đồng hồ.
Khi còn là trẻ con, khả năng nhận thức của chúng ta thật đáng kinh ngạc. Chúng ta tiếp nhận và xử lí thông tin với tốc độ mà có lẽ là chúng ta sẽ không bao giờ đạt được. Khung cảnh mới, âm thanh mới, mùi vị mới, con người mới, cảm xúc mới, trải nghiệm mới: chúng ta đang học được về thế giới và những điều khả thi. Mọi thứ đều mới, mọi thứ đều thú vị, mọi thứ đều đánh thức trí tò mò. Và bởi vì sự mới mẻ đều có sẵn xung quanh ta, chúng ta luôn chú ý, chúng ta hấp thụ, chúng ta đón nhận mọi thứ vào bên trong tâm hồn. Ai biết là đến khi nào những thứ này sẽ trở nên hữu dụng.
Nhưng khi chúng ta lớn lên, cái yếu tố nhàm chán cũng tăng dần theo cấp số mũ. Toàn những thứ cũ rích ở những nơi ta đã từng đi qua, cần gì phải để ý nữa, để ý đến mấy cái mình không biết sẽ phải làm gì với nó thì có tác dụng gì cơ chứ. Và chúng ta đã đóng lại sự chú ý, tương tác và tò mò bẩm sinh để thay bằng một loại những thói quen bị động và không cần phải động não trước khi chúng ta kịp nhận ra điều này. Và ngay cả khi chúng ta muốn nhảy vào tham gia, thì chúng ta mới biết rằng tuổi thơ là một thứ xa xỉ.
Những ngày tháng mà việc duy nhất chúng ta phải làm là học hỏi, tiếp thu, tương tác; bây giờ chúng ta có những thứ khác, đầy áp lực và trách nhiệm (hoặc là chúng ta nghĩ thế thôi) để quan tâm. Và cùng với đó ta luôn bị đòi hỏi phải chú ý hơn – một vấn đề cần quan tâm cùng với áp lực đa-nhiệm (multitasking) ngày càng phát triển trong thời đại số hóa 24/7 – và thế là sự chú ý thực sự của chúng ta lại giảm đi. Và cứ thế, chúng ta càng ngày càng trở nên ít để ý tới thói quen suy tư của mình, và ngày càng cho phép tâm trí đưa ra những phán xét và quyết định, mà lẽ ra nó nên ngược lại.
Thiên tài là gì? Là khả năng trở lại làm một đứa trẻ khi ta muốn
Vào năm 2010, một nhóm các nhà tâm lí học đã quyết định làm một thí nghiệm về ý tưởng trực quan là: Khi chúng ta rời bỏ con người tuổi thơ của chính chúng ta, thì ta cũng bỏ lại đằng sau một phần cảm hứng sáng tạo – thứ làm nền tảng cho những ý tưởng mới mẻ, các suy nghĩ đột phá và các khám phá. Họ yêu cầu một nhóm sinh viên đại học viết một bài văn ngắn: Hãy tưởng tượng hôm nay bạn được nghỉ học. Bạn sẽ làm gì, nghĩ gì và cảm thấy như thế nào?
Tất cả các sinh viên đều trả lời cùng một đề bài. Nhưng một nhóm khác được thêm vào một câu nữa trong đề: Bạn là một đứa trẻ 7 tuổi.
Sau khoảng 5 phút viết bài, mỗi người tham gia được yêu cầu hoàn thành một Bài kiểu tra về Tư duy sáng tạo kiểu Torrance). Kết quả trung bình đều giống như những gì dự đoán trước – chỉ trừ một việc: Những người được giao làm đề bài có thêm dữ kiện 7 tuổi cho thấy mức tư duy sáng tạo cao hơn hẳn. Câu trả lời bằng ngôn từ và minh họa của họ đều bỏ xa những người bạn có đầu óc người lớn của mình.
Có vẻ như việc tưởng tượng rằng, bạn là một đứa trẻ có thể khiến tâm trí bạn trở nên linh động hơn, mới mẻ hơn, cởi mở hơn khi sáng tạo và dễ dàng tạo ra những sản phẩm của trí tưởng tượng – một bổ sung tuyệt vời cho những nghiên cứu khác chỉ ra rằng, tiếng cười và những cảm xúc tích cực cũng có tác dụng tương tự.
Và điều đó có đáng ngạc nhiên không? J.M.Barrie đã từng viết rằng: “Thiên tài là gì? Là khả năng trở lại làm một đứa trẻ khi ta muốn.” (Quả thực ông đã tạo ra đứa trẻ điển hình nhất mọi thời đại – Peter Pan) – nhưng Charles Baudelaire lại không cho là như vậy, tập thơ Fleurs du Mals (Hoa của Quỷ) của ông có thể là bất cứ thứ gì miễn là không phải một cuốn sách cho thiếu nhi, nhưng ông cũng viết những thứ tương tự với Barrie: “Thiên tài chẳng hơn gì việc tìm lại tuổi thơ khi ta muốn, và tuổi thơ giờ đây được trang bị thêm khả năng của một người trưởng thành, một bộ não biết phân tích để diễn đạt lại mình và sắp xếp những trải nghiệm đã có.” Trên thực tế, phân tích của Baudelaire có lẽ sát hơn với vấn đề ở đây: khả năng lấy lại sự tò mò của trẻ con, nhưng đồng thời cũng kết hợp chúng với những trải nghiệm và chiều sâu mà một đứa trẻ không thể có.
Đó không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên, mà là một sự phân biệt có chủ ý vô cùng quan trọng. Cuối cùng điều quan trọng là thái độ chứ không phải tuổi tác. Bạn có thể gặp những đứa trẻ to xác, les grandes personnes, cũng như bạn gặp những người lớn mà không phải như vậy. Câu hỏi ở đây là về cách ta nhìn thế giới. Nó chẳng liên quan quan gì đến tuổi tác, trừ việc duy nhất là thời gian khiến thái độ của chúng ta nghiêm túc hơn.
Trong nghiên cứu được đề cập ở trên, các nhà nghiên cứu còn tìm ra rằng: không chỉ những người nghĩ như một đứa trẻ bảy tuổi đạt kết quả tốt hơn. Những người đạt điểm cao hơn về mức độ cởi mở với trải nghiệm cũng có số điểm cao hơn…
Tâm trí lúc nào cũng có thể linh hoạt. Chúng ta không phải trở thành grandes personnes mãi mãi, ngay cả khi chúng ta đã hoàn toàn đặt chân vào lối mòn đó. Và giống như câu chuyện của Saint-Exupéry, chúng ta có thể lớn khi chúng ta sửa máy bay – một điều quan trọng nghiêm túc cần làm ở giữa sa mạc, cách xa Xứ Con Người cả ngàn dặm – và cũng như một họa sĩ vẽ hình minh họa mới nổi, vẽ những chồi cây bao-báp nguy hiểm và cừu trong một chiếc hộp khi ta muốn. Đó là vẻ đẹp của tâm trí. Chúng ta có sức mạnh để thay đổi nó khi ta muốn, nhưng chỉ khi ta chọn làm như vậy.
Hoàng Tử Bé bao nhiêu tuổi? Ta không biết. Ta chỉ biết rằng, chàng có tóc màu vàng kim. Tiếng cười của chàng lấp lánh như những ngôi sao. Chàng yêu một bông hoa hồng. Và chàng thuần hóa một chú cáo khôn ngoan để trở thành bạn đồng hành của chàng. Nhưng mà cuối cùng thì đó chẳng phải mới là những điều quan trọng hay sao?
Theo Scientific American
PHỤ CHÚ 4
Hội chứng Hoàng tử bé: Bi kịch về cuộc đời tạm bợ của những người trẻ không chịu...lớn
Cụm từ "puer aeternus" là tiếng Latin để chỉ những "cậu bé không bao giờ muốn lớn." Trong thần thoại Hy Lạp, nó ám chỉ vị thần nhi đồng, "mãi mãi tuổi hồng thơ ngây", như Iacchus, Dionysus, Eros. Mẫu hình này cũng được sử dụng trong các câu chuyện kinh điển như Peter Pan hay Bức chân dung của chàng Dorian Gray.
Trong trường phái của Jung, thuật ngữ 'puer' được dùng để miêu tả những người đàn ông trưởng thành, có đời sống cảm xúc ngưng phát triển ở tuổi thiếu niên, thường thường gắn liền với sự phụ thuộc rất lớn vào hình mẫu người mẹ. Cụm từ "puella" được dùng để miêu tả người phụ nữ dù lớn nhưng vẫn mãi là đứa con gái bé bỏng của người cha. Hội chứng puer/puella không phải là một vấn đề gì phức tạp trong những năm đầu đời của một con người, bởi vì đó là tuổi được cho phép làm trẻ con. Nhưng rất nhiều các khủng hoảng tâm lý sau này lại bắt nguồn từ nhu cầu tâm lý không chịu "làm người trưởng thành" này.
Đây là cách một tiểu thuyết gia hiện đại mô tả trải nghiệm của cô về các puer:
Fay hiểu các chàng trai không chịu lớn, và cô ước mình có thể nói với đứa con gái của mình, Lizzie, để cảnh báo cô. Nhưng cô biết Lizzie sẽ không bao giờ chịu lắng nghe, giống như cô ngày xưa.
Một chàng trai thuộc kiểu Puer là người hấp dẫn đến điên cuồng, năng lượng sống dạt dào, và chàng ta có sức hút không thể cưỡng nổi. Trong bộ bài Tarot, chàng ta chính là quân Chàng Khờ (The Fool)....
Trong hình quân bài, Chàng khờ, giống như một kẻ lang bạt, mang theo một tay nải gắn vào chiếc gậy. Những chàng trai này, họ sẽ rời bỏ bạn, nhưng họ sẽ không bao giờ nói rằng họ sẽ ở lại, không bao giờ nói họ sẽ yêu bạn suốt đời, hay thậm chí chịu trách nhiệm về mối quan hệ này. Tất cả những gì họ muốn là có một thời gian vui vẻ. Và đòi hỏi đó thì có gì sai cơ chứ? Chẳng có gì sai, trừ khi bạn bắt đầu tự hỏi bạn hứng thú đến mức nào với việc "yêu xã giao"...
Niềm vui khi ở bên cạnh những chàng trai này là một cuộc trở về rạo rực, thông qua họ, với thế giới tuổi thơ, nơi không có những chiếc đồng hồ và những "deadline" ăn chặn thời gian của mình, không có những bộ quần áo phải giữ sạch, không có những hậu quả phải cân đo suy tính. Ngày và đêm tràn ngập những thứ ngớ ngẩn, những hội kín với lũ hàng xóm, cuộc sống vô tư lự, không phải lo nghĩ...
Họ không phải lúc nào cũng trở về nhà, và họ cũng chẳng bận tậm xin lỗi vì điều này. Họ sẽ không thích giúp dọn dẹp nhà cửa vì họ thích mọi thứ lộn xộn. Họ sẽ không làm việc quá chăm chỉ bởi vì họ không muốn bị kẹp vài cái bẫy thành công. Và họ sẽ giải quyết các mâu thuẫn trong mối quan hệ khi nó gặp vấn đề bởi vì yêu không phải để "lấy", mục đích của yêu là vui. Nếu bạn không muốn chơi với họ nữa, họ cũng chẳng quan tâm đâu. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ sẽ ngừng rong chơi.
Bằng cách nào đó, họ sẽ khiến bạn cảm thấy rất già, những chàng trai này. Họ sẽ biến bạn thành mẹ của họ.
Tất nhiên, không phải người phụ nữ nào cũng thấy những người đàn ông này "hấp dẫn điên cuồng,", chứ chưa nói đến mức không thể cưỡng lại. Tại sao không? Bởi lẽ, tất nhiên những người phụ nữ có xu hướng tìm kiếm những người đàn ông chín chắn thì Puer sẽ là một lựa chọn cực kì tồi đối với họ. Và thường chỉ những cô gái đổ gục dưới các puer, bản thân họ cũng có khả năng là các puella.
Một puer điển hình thường trốn tránh trách nhiệm cho những hành động của mình, và điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi vì những gì chàng ta làm không nằm trong sự kiểm soát có ý thức của mình. Chàng ta gục ngã trước sự điều khiển của vô thức, và đặc biệt rất dễ bị những bản năng của mình chiếm quyền kiểm soát. Chàng rất hay làm những việc mà bản thân "cảm thấy đúng." Tuy nhiên, chính chàng cũng không thể hiểu nổi những cảm xúc của mình đến độ một việc vừa "cảm thấy đúng" trong lúc này, phút sau lại thấy sai. Vì vậy, ví dụ chàng có thể làm liều trong một phút huy hoàng, rồi sau đó cảm thấy đầy hối hận vào ngày hôm sau – hoặc thậm chí ở ngay đêm đó, trong giấc mơ của mình...
Những puer thường thường gặp khó khăn với sự cam kết. Họ thích để mở những lựa chọn của mình và không thể chịu đựng phải "cột cọc với trâu". Họ thích hành động theo ý muốn của mình, không bận tâm nhiều đến hậu quả. Puer trưởng thành phải hi sinh phẩm chất có phần cuốn hút này – nhưng cái mà chàng hi sinh sẽ trở thành một phần trong mảng tối (khái niệm Shadow trong tâm lý học Jung). Để không trở thành một cỗ máy, sống bởi thói quen và kỉ luật, chàng sẽ phải tái đồng hóa những đặc điểm puer của mình một cách có ý thức.
Ngoài ra, đặc điểm tâm lý khác của puer là cảm giác mình đặc biệt, mình có một sứ mệnh trời ban. Khi bạn có cảm giác "định mệnh" này, thật khó để dồn năng lượng vào cơm áo gạo tiền. So với những gì lớn lao mà bạn được sinh ra để hoàn thành, guồng quay của cuộc sống thường ngày trở nên quá ư buồn tẻ. Đây là một dạng "lạm phát". Bạn cảm thấy mình là người đặc biệt, vậy tại sao, bạn tự hỏi chính mình, mình lại đang làm những việc tầm thường này?
Nếu thái độ này còn tồn tại, bạn có thể vui vẻ biện hộ cho những cuộc rong chơi của mình, đợi đến khi thời cơ đến để xưng danh thiên hạ – hoặc đợi nó từ trên trời rơi xuống. Bạn chơi lô đề hoặc mua cổ phiếu. Bạn biết là khả năng trúng Vietlott rất thấp, nhưng không sao, bạn có cả một tương lai tươi sáng để đặt cược cơ mà.
Những puer và puella sống một cuộc đời tạm bợ (a provisional life). Nỗi sợ bị bó buộc vào đâu đó khiến họ không thể trốn thoát luôn tồn tại sâu thẳm trong tâm can họ. Hiếm khi họ hài lòng và sống trong hiện tại; họ luôn luôn "sắp sửa" làm gì đó, để tạo ra sự thay đổi; một ngày họ sẽ làm thứ cần phải làm – nhưng chưa phải bây giờ. Thế giới của họ ngập chìm sự "có thể": "Có thể tao sẽ làm điều này...có thể tao sẽ làm điều đó...." Những kế hoạch tương lai trở thành không gì cả; cuộc đời trượt đi trong những ảo mộng về các dự định không thành, bởi họ chẳng bao giờ hành động quyết liệt để thay đổi trạng thái hiện tại.
Đời tạm bợ giống như một chiếc nhà tù. Các song sắt là những mặc cảm gia đình, bó buộc một cách vô thức trong những tháng năm đầu bởi, và sự vô trách nhiệm không giới hạn của một đứa trẻ. Vì vậy, những ước mơ của những cô/cậu không muốn lớn đầy những hình ảnh nhà tù: xích, song sắt, lồng, bẫy, dấy trói. Bản thân cuộc sống, thực tại của họ, được trải nghiệm như một sự giam cầm. Họ thèm khát sự độc lập và ao ước sự tự do, nhưng họ không có sức mạnh để biến giấc mơ thành hành động.
Puers căm thù những "biên giới" và thường coi bất cứ sự ngăn cấm nào là không thể chấp nhận được. Họ không nhận ra rằng trưởng thành đòi hỏi những giới hạn. Điều này được diễn đạt trong Kinh Dịch, cuốn sách kinh điển của tư tưởng triết học Trung Hoa, như sau:
Tiềm năng vô hạn không phù hợp với con người; nếu chúng tồn tại, cuộc đời của anh ta sẽ hòa vào sự vô hạn. Để trở nên mạnh mẽ, cuộc đời của con người cần những tiết chế, định đoạt bởi nghĩa vụ và tự nguyện chấp nhận. Cá nhân tìm thấy ý nghĩa như một tâm hồn tự do chỉ bằng cách bao quanh mình với những tiết chế và tự xác định đâu là bổn phận cho mình.
Trên thực tế, những puer hay puella nào may mắn thì vô thức của họ cuối cùng sẽ nổi loạn và thể hiện những bất mãn thông qua một cuộc khủng hoảng tâm lý. [Đây là lúc họ lấy vợ, và nhận ra mình không thể mãi là một đứa trẻ được nữa]. Bằng không, họ sẽ mặc kẹt và sống với những "tiềm năng" đến suốt đời...
Nguồn: Digesting Jung, Daryl Sharp