THÁNG 11
THÁNG 11
TRIẾT ĐỌC
ALBERT CAMUS của tôi
hay ánh sáng của sự phi lý
Tôi rất hay hóng hớt, đua theo những lời rủ rê đọc sách, xem phim hay nghe nhạc của người khác. Làm sao tôi có thể từ chối đáp lại một tiếng gọi đầy tin tưởng như vậy, của một tinh thần cởi mở khác: “Này, hãy trải nghiệm thế giới thú vị ấy qua đôi mắt của tôi đi! Bạn có trông thấy điều tôi đang trông thấy, có cảm thấy điều tôi đang cảm thấy? Bạn có hiểu những điều tôi nghĩ, tôi khám phá ra không…?”
Như vậy, tôi nghĩ, không hẳn là việc các quan điểm cần được đồng ý hay công nhận; điều cốt lõi là “được trông thấy qua những gì mình đang trải nghiệm”.
Và thế là, dù không nằm trong danh sách của mình, nhưng khi được mời gọi, tôi thấy cần phải gõ cửa Người xa lạ và Thần thoại Sisyphus để dòm ngó Albert Camus.
Và đây là những điều tôi trông thấy.
Ở đời, có những người sống như một đường thẳng, hay chí ít là khá ít bước ngoặt, ít bi kịch, ít nổi trầm. Và có những người lớn lên trong những ngã rẽ rối ren giữa ánh sáng chói và bóng đen ghi, để rồi cả thế giới trong họ trở thành mê cung căng thẳng thường trực giữa sống và chết.
Camus thuộc về dạng thứ hai.
Ông sinh ra ở Algeria, trong một gia đình nghèo đến mức thiếu sữa, thiếu điện, và đủ đói để làm câm đi mọi tiếng nói nhưng lại làm bật lên mọi câu hỏi về ý nghĩa và số phận. Cha chết khi ông chưa biết nhớ. Mẹ làm thuê, ít nói, gần như mù chữ. Căn phòng thuê chật cứng người nghèo, nằm trong một khu phố đông người Arab và người châu Âu hạ cấp, nơi nắng chói là ngôn ngữ chung. Sau này Camus viết: “Tôi từng biết nghèo, nhưng trong nghèo có ánh sáng.”
Tôi tưởng tượng, lớn lên với tuổi thơ ấy, hẳn ánh sáng (mà ta sẽ trông thấy trong Người xa lạ) không chỉ là phong cảnh mà là một cách hiện hữu: chói, thẳng, không biện giải.
Rồi lao phổi đến, như một nhát dao vô nghĩa chém thẳng xuống thanh xuân. Camus 17 tuổi, đang chơi bóng đá thì bỗng bị nhốt vào bệnh viện. Từ đó, sống trong mong manh của sự sống, cái chết với ông không còn là một ý niệm trừu tượng, mà là một hàng xóm hay dòm ngó ngoài cửa. Chính bệnh lao tạo nên cảm thức “cuộc đời luôn có rìa chết”, tinh thần của Dịch hạch.
Camus học triết tại Đại học Algiers. Luận văn của ông viết về Plotinus và Saint Augustine. Giai đoạn 20 đến 25 tuổi, ông là diễn viên, đạo diễn sân khấu, nhà báo, thành viên nhóm “Théâtre du Travail”. Ông sống bằng việc viết báo điều tra về nghèo đói và bất công thuộc địa.
Chính thời kỳ này nảy mầm một Camus của triết gia thực địa, với thuyết phi lý: cuộc đời không có cấu trúc đạo đức, và cái chết phơi bày mọi ảo tưởng.
Năm 1940, khi thế giới rung chuyển với Thế chiến, Camus chuyển tới Pháp và gia nhập lực lượng kháng chiến ngầm. Do lao phổi không thể gia nhập quân đội, ông viết báo cho Combat, một tờ báo bí mật.
Chính trong thời kỳ thế giới rối ren ấy, trong sự im lặng trước cái ác, sự phi lý của chiến tranh, sự mong manh của mạng sống, ông viết ba tác phẩm làm nên tên tuổi mình: Người xa lạ cùng Thần thoại Sisyphus (1942), và Caligula (1944).
Sau Thế chiến, Camus trở thành một trong những trí thức được ngưỡng mộ nhất nước Pháp. Nhưng rồi Sartre và nhóm hiện sinh muốn lôi kéo Camus đứng về phe Marxist, trong khi ông từ chối mọi ý thức hệ “hứa hẹn thiên đường”. Cuộc tranh luận giữa Camus và Sartre (qua L’Homme révolté) trở thành một trong những vụ rạn nứt nổi tiếng nhất triết học hiện đại. Camus bị phe tả xem là “cơ hội”, và ông trở nên cô độc. Một dạng cô độc rất Meursault.
Năm 1957, Camus nhận Nobel Văn chương khi mới 44 tuổi, trở thành một trong những người trẻ nhất từng nhận giải thưởng danh giá này.
Ngày 4/1/1960, Camus chết trong tai nạn xe hơi cùng Michel Gallimard, dù ông vốn không thích đi ô tô. Trong túi ông có vé tàu và trong vali là bản thảo Người đầu tiên (Le Premier Homme) còn dang dở.
Cái chết đột ngột, phi lý, không mang thông điệp ấy, đúng đến mức kỳ lạ với triết học của ông (và cũng là một sự gán nghĩa của chính tôi).
Và Camus dưới cái nhìn của tôi là một con người nhân văn tràn đầy sức sống:
“Giữa mùa đông tàn khốc, tôi khám phá ra trong mình một mùa hè bất khả chiến bại.”
Một con người sinh ra trong ánh sáng của nghèo đói quá mạnh, lớn lên trong một cơ thể quá yếu, suy nghiệm và viết trong một thế giới quá hỗn loạn, và quá can đảm, quá sâu sắc, quá yêu sự thật để có thể phớt lờ việc đối diện với câu hỏi hiện sinh:
“Ta sống như thế nào đây khi thế giới trả lời những câu hỏi của ta bằng sự im lặng phi lý?”
CC, 11.2025
MON ALBERT CAMUS
lumière de l’absurde
Je cède souvent aux invitations enthousiastes des autres quand il s’agit de lire un livre, voir un film ou écouter un album. Comment pourrais-je refuser un appel rempli de confiance comme celui-ci, venu d’un autre esprit ouvert: “Viens découvrir ce monde fascinant à travers mes yeux. Vois-tu ce que je vois, ressens-tu ce que je ressens? Comprends-tu ce que j’ai compris, ce que j’ai découvert…?” Je crois que le point essentiel n’est pas d’approuver ou de valider une opinion, mais de voir à travers l’expérience de l’autre.
C’est ainsi que, bien qu’ils ne figurassent pas dans ma liste de lectures, je me suis senti obligé d’ouvrir L’Étranger et Le Mythe de Sisyphe, pour jeter un œil à Albert Camus.
Et voici ce que j’ai vu.
Dans la vie, certains avancent en suivant une ligne presque droite, avec peu de virages, peu de drames, peu de tempêtes. Et puis il y a ceux qui grandissent dans un dédale de bifurcations, au croisement d’une lumière aveuglante et d’ombres épaisses, jusqu’à ce que leur monde intérieur devienne un labyrinthe où la tension entre vivre et mourir se tient toujours en éveil.
Camus appartient à la seconde catégorie.
Il naît en Algérie, au sein d’une famille si pauvre qu’elle manque de lait, d’électricité, et parfois même de voix. La misère étouffe la parole mais fait surgir les grandes questions du sens et du destin. Son père meurt avant qu’il puisse en garder mémoire. Sa mère, femme de ménage, parle peu, lit à peine. Ils vivent dans un logement exigu, au milieu d’un quartier où se mêlent Arabes et Européens pauvres, et où l’éblouissement du soleil est une langue commune. Camus écrira plus tard: “J’ai connu la pauvreté, mais dans la pauvreté il y avait la lumière.” J’imagine qu’en grandissant ainsi, la lumière (celle que l’on retrouve dans L’Étranger) n’était pas seulement un paysage, mais une manière d’exister: directe, tranchante, sans explication.
Puis vient la tuberculose, comme un coup de sabre absurde tombant sur son adolescence. A dix-sept ans, alors qu’il joue au football, il se retrouve enfermé à l’hôpital. Dès lors, il vit dans la fragilité, dans la proximité permanente de la mort. Pour lui, la mort n’est plus une idée abstraite, mais un voisin silencieux qui rôde derrière la porte. Cette maladie forge en lui la sensation que “la vie possède toujours une lisière avec la mort”, ce que l’on retrouve dans La Peste.
Camus étudie la philosophie à l’Université d’Alger. Il consacre son mémoire à Plotin et à saint Augustin. Entre vingt et vingt-cinq ans, il est acteur, metteur en scène, journaliste, membre du “Théâtre du Travail”. Il gagne sa vie en enquêtant sur la pauvreté et l’injustice coloniale.
C’est dans cette période que germe le Camus penseur du réel, avec la notion d’absurde: la vie n’a pas de structure morale, et la mort dévoile l’illusion de toutes nos certitudes.
En 1940, au moment où le monde bascule dans la guerre, Camus part en France et rejoint la Résistance clandestine. À cause de sa tuberculose, il ne peut intégrer l’armée. Il écrit pour Combat, un journal secret.
C’est dans ce temps de chaos, face au silence devant le mal, à l’absurdité de la guerre, à la fragilité de la vie, qu’il publie ses œuvres majeures: L’Étranger et Le Mythe de Sisyphe en 1942, puis Caligula en 1944.
Après la guerre, Camus devient l’un des intellectuels les plus admirés de France. Mais Sartre et les existentialistes tentent de l’attirer du côté marxiste. Camus refuse toute idéologie promettant un paradis terrestre. La controverse entre Camus et Sartre, notamment autour de L’Homme révolté, devient l’une des ruptures les plus célèbres de la philosophie moderne. La gauche le taxe d’“opportuniste”, et Camus se retrouve isolé. Une solitude très proche de celle de Meursault.
En 1957, Camus reçoit le prix Nobel de littérature à quarante-quatre ans, l’un des plus jeunes lauréats de l’histoire.
Le 4 janvier 1960, il meurt dans un accident de voiture aux côtés de Michel Gallimard, alors qu’il n’aimait pas voyager en automobile. Il avait un billet de train dans sa poche. Dans sa valise se trouvait le manuscrit inachevé de Le Premier Homme. Une mort soudaine, absurde, sans message, terriblement cohérente avec sa philosophie (ou peut-être est-ce là mon propre geste d’interprétation).
Et Camus, tel que je le vois, est un être profondément humain et vibrant:
“Au milieu de l’hiver, j’ai découvert en moi un été invincible.”
Un homme né dans une lumière trop intense, grandi dans un corps trop fragile, pensant et écrivant dans un monde trop chaotique, trop courageux, trop lucide, trop amoureux de la vérité pour éviter la question existentielle:
“Comment vivre lorsque le monde répond à nos questions par un silence absurde?”
NGƯỜI XA LẠ của Côi
hay case chẩn đoán lâm sàng tự kỷ
Côi rủ tôi đọc Người Xa Lạ, không hẳn vì ý nghĩa hiện sinh của nó, mà bởi Côi thấy chân dung tự kỷ hiện lên rất rõ ràng không thể chối cãi, như một case chẩn đoán lâm sàng đầu tiên trên thế giới, qua nhân vật Meursault.
Côi viết rất đẹp, sắc, gọn. Côi không đọc Người xa lạ theo biểu tượng đạo đức triết học, mà với cách đọc mang hơi hướng hiện sinh tâm lý trị liệu, đề cao tính “trung thực cảm giác”, “trần trụi của hiện thực nội thân”. Sự nhẹ nhõm trong vô nghĩa là cái khó nhất trong tư duy Camus, và Côi đã viết được điều mà hiếm ai viết rõ: khi không còn đòi đời phải có ý nghĩa, con người trở nên tự do.
Khi nhìn Meursault theo cách nhìn của Côi, với cặp kính diễn giải song hành để mượn lăng kính thời nay để soi vào một nhân vật vượt thời gian, tôi hiểu được sự đồng cảm tự nhiên của Côi với Meursault. Có lẽ, Côi nhìn Meursault theo kiểu con người nhìn Camus.
Côi có cách tiếp cận vô cùng sắc bén, khi kết nối Meursault với những đặc điểm tri giác thô trực, không lọc, siêu nhạy cảm giác quan với cảm giác/ánh sáng/tiếng động, không điều chỉnh theo quy ước xã hội, sự khó chịu với diễn ngôn đạo đức, sự trung thực cảm giác và suy luận, việc không gán ý nghĩa cho cảm xúc…
Nếu Camus đưa ra bản cắt X quang của một con người bị tước hết các tầng ý nghĩa xã hội thì, Côi đã nhìn nhân vật qua một ảnh chụp rất mới. Côi đọc Meursault như một cơ thể cảm giác thuần khiết, một bản thể không dùng “ngôn ngữ xã hội” để tồn tại. Đó là điều Camus gọi là “sự khỏa trần của con người”.
Côi viết: “Với Meursault, sự thật là một hiện tượng vật lý. Và thế giới căm ghét điều đó.” Còn Camus nói (trong Thần Thoại Sisyphe): “xã hội sợ những người không chơi trò giải thích.”
Với Côi “Meursault chưa bao giờ là người xa lạ. Mà là chính chúng ta.”
Còn Camus nói: “Không có người xa lạ. Chỉ có những con người.”
Qua cách Côi đọc, tinh tế, mạnh bạo, hiện đại, với tinh thần phi lý mở rộng, tôi thấy một Camus dưới ánh sáng thần kinh học và tâm lý học thế kỷ 21, hiện sinh gặp cơ thể học, phi lý gặp sự trung thực giác quan.
Và đó là những điều khiến tôi ngưỡng mộ ở góc nhìn của Côi.
CC, 11.2025
L’ÉTRANGER selon Côi
ou le premier cas clinique d’autisme
Côi m’a proposé de relire L’Étranger, non pas pour sa portée existentialiste, mais parce qu’il y voit le portrait autistique le plus frappant, indéniable, presque comme le tout premier « cas clinique » du monde littéraire, incarné par Meursault.
Côi écrit avec une beauté nette, concise, tranchante. Il ne lit pas L’Étranger à travers le prisme moral ou philosophique, mais avec une approche teintée d’existentialisme thérapeutique, accordant une place centrale à la « sincérité sensorielle », à la « nudité de l’expérience intérieure ». Trouver de la légèreté dans l’absence de sens est l’un des défis les plus subtils chez Camus, et pourtant Côi l’exprime avec une clarté rare : lorsque l’on cesse d’exiger du monde qu’il ait un sens, l’homme devient libre.
En observant Meursault à travers le regard de Côi, avec cette double lentille – contemporaine et intemporelle – j’ai compris la nature spontanée de sa résonance avec le personnage. Peut-être Côi regarde-t-il Meursault comme l’homme regarde Camus.
L’approche de Côi est d’une précision remarquable : il relie Meursault à une perception brute, non filtrée, hypersensible à la lumière, aux sons, aux sensations ; à une incapacité – ou un refus – de s’ajuster aux codes sociaux ; à une irritation devant les discours moralisateurs ; à une fidélité absolue à ses impressions et à sa logique ; à l’absence totale de surinterprétation affective.
Si Camus nous offre une radiographie d’un être humain dépouillé des couches de sens social, alors Côi propose une image encore plus inattendue : une photographie sensorielle.
Il lit Meursault comme un corps pur de sensations, une présence qui n’utilise pas le « langage social » pour exister. C’est ce que Camus appelait « la nudité de l’homme ».
Côi écrit :
« Pour Meursault, la vérité est un phénomène physique. Et le monde déteste cela. »
Camus, dans Le Mythe de Sisyphe, disait :
« La société craint ceux qui refusent de jouer au jeu des explications. »
Pour Côi, « Meursault n’a jamais été l’étranger. C’est nous. »
Et Camus répond : « Il n’y a pas d’étrangers. Il n’y a que des hommes. »
Dans la lecture de Côi – subtile, audacieuse, résolument moderne – l’œuvre de Camus se révèle sous une lumière neuve, éclairée par les neurosciences et la psychologie du XXIe siècle :
l’existentialisme rencontre le corps,
l’absurde rencontre la sincérité sensorielle.
Et c’est précisément cela qui me touche tant dans le regard de Côi.
CC, 11.2025
NGƯỜI DƯNG của tôi
khi ánh sáng trở thành bản án
Tôi biết có nhiều người sống với mong mỏi sẽ được chết già. Nhưng tôi đã quan sát rất nhiều người sống lâu, và tôi không chắc rằng lay lắt kéo dài những mảnh ký ức vụn vỡ không còn thuộc về đâu có thể còn là sống.
Có lẽ điều này phụ thuộc vào việc người ta coi thế nào là sống.
Nên cũng có không ít người không cần thọ mạng, nhưng cái chết cần phải vinh quang. Những cái chết vì lý tưởng có thể khiến người sống ứa lệ; hẳn theo họ, đó là một cuộc đời đáng sống. Nhưng nói cho cùng, đó vẫn chỉ là nghĩa lý của những người còn sống áp lên xác họ.
Nếu đã là vậy, thì một cái chết gây kinh hoàng ám ảnh cho người khác kiểu một bài học nhân sinh, nhưng lại nhanh gọn và ít đau đớn đối với kẻ chết thì sao? Và câu cuối cùng của Meursault trong NGƯỜI DƯNG, (tôi dịch như vậy), đã khiến biết bao nhiêu người phải ngẫm nghiệm?
“Để cho mọi sự được trọn vẹn, để tôi bớt cô độc, tôi chỉ còn ước rằng ngày hành hình sẽ có thật nhiều khán giả, và họ sẽ đón tôi bằng những tiếng la ó căm ghét.”
Đọc Meursault của Người Dưng, tôi thấy một nhân vật sống bằng cơ thể, bằng sự trung thực vật lý, không có trung gian. Một hình thái tồn tại tri giác, không được lọc qua một hệ thống ý nghĩa xã hội nào, chỉ chịu tác động trực tiếp của nóng, chói, gió, biển. Một sinh thể vật lý và lý trí, trong thế giới mà xã hội muốn mọi người phải là sinh thể cảm xúc đạo đức.
Camus không viết về một kẻ vô cảm. Qua cách nhìn của tôi, ông viết về một người không dùng ngôn ngữ đạo đức để diễn giải và tồn tại. Giống như Meursault là phần tự nhiên trong con người, biết nóng, biết sáng, biết mệt, biết khoái lạc, biết suy nghĩ lý trí, mà không màng đến những khuôn mẫu và lề thói xã hội kỳ vọng mỗi thành viên buộc phải phô diễn.
Cái chết của mẹ Meursault trong truyện khiến tôi liên tưởng tới cái chết của cha Camus ngoài đời. Một sự kiện xảy ra, không kèm theo ý nghĩa, không bài học, không thông điệp, không hối hận…, rồi im lặng rơi, để dòng đời tiếp tục trôi theo guồng quay cố hữu của hiện tại.
Điều gây khó chịu ở nhân vật này là anh không lấp khoảng trống bằng bất kỳ câu chuyện nào. Meursault chỉ đơn thuần là một sự dửng dưng trước mọi ảo tưởng. Sự bực bội của con người xã hội trước Meursault là nỗi hậm hực giống như bị chính tính phi lý của hiện tại đứng né bên lề, thờ ơ, lãnh đạm nhìn ta trần trụi qua những lớp vai diễn.
Và phải chăng bãi biển, nơi ánh nắng đóng vai trò của định mệnh, là phiên bản văn chương của tuổi thơ Camus? Một thứ ánh sáng quá mạnh đến mức không còn chỗ cho suy xét. Nó tấn công không thương tiếc, và Meursault, một cách thành thật, trở thành một cơ thể phản ứng. Không ẩn dụ. Không triết lý. Không bi kịch. Chỉ là một phản ứng tự động và trực diện, như cách mà thế giới vật lý vận hành.
Những cuộc hỏi cung, những phiên tòa diễn, một sân khấu nơi một nhóm người xã hội gom hết nhu cầu ý nghĩa để dựng lên một câu chuyện kịch tính cho dễ nhai nuốt, nơi đối tượng phán xét không phải hành vi mà linh hồn. Một kẻ không khóc trước quan tài mẹ thì đương nhiên là kẻ có tội. Không quan trọng tội gì. Miễn là không hợp tiêu chuẩn đạo đức mà toàn thể xã hội cần phải tin.
Cho đến cuối cùng, Meursault vẫn thờ ơ với việc diễn xuất những cảm xúc của mình theo ngôn ngữ xã hội. Anh tìm thấy sự nhẹ lòng trước sự dửng dưng đầy dịu dàng của thế giới, đồng điệu với thế gian trong sự chân thật trực diện, trọn vẹn vai trò của một NGƯỜI DƯNG.
Sự phi lý ở đây không phải ở Meursault, mà ở nỗ lực tuyệt vọng của xã hội muốn biến hỗn loạn thành điều gì đó gọi là có lý do, có trật tự. Với tôi, “xa lạ” ở đây không chỉ là người khác nhìn Meursault, không chỉ là sự dửng dưng của anh, mà còn ở những con người xã hội, do quá quen với việc gán nghĩa để tồn tại, mà trở nên xa lạ với bản chất của đời sống, những điều không nhất thiết có lý đối với lý trí con người.
MON ÉTRANGER
quand la lumière devient sentence
Je sais que beaucoup souhaitent mourir de vieillesse. Mais en observant tant de gens vivre longtemps, je ne suis pas sûre que traîner des fragments de mémoire brisés, qui ne se rattachent plus à rien, puisse encore s’appeler vivre.
Peut-être que cela dépend de ce que chacun appelle vivre.
Et donc, il y en a d’autres pour qui la longévité importe peu : seule la gloire de la mort compte. Les morts pour un idéal peuvent faire pleurer les vivants ; selon eux, c’est une vie qui valait d’être vécue. Mais, au fond, ce ne sont que les vivants qui donnent un sens au cadavre.
Si c’est ainsi, alors qu’en est-il d’une mort qui terrifie les autres, une sorte de leçon existentielle, mais brève et presque sans douleur pour celui qui meurt ? Et la dernière phrase de Meursault n’a-t-elle pas fait réfléchir des générations ?
« Pour que tout soit consommé, pour que je me sente moins seul, il me restait à souhaiter qu’il y eût beaucoup de spectateurs le jour de mon exécution et qu’ils m’accueillent avec des cris de haine. »
En lisant Meursault de L’Étranger, je vois un personnage qui vit par le corps, par une honnêteté physique, sans médiation. Une forme d’existence sensorielle, non filtrée par aucun système de significations sociales, soumise uniquement à l’impact direct de la chaleur, de l’éblouissement, du vent, de la mer. Un être physique et rationnel, dans un monde où la société voudrait que chacun soit un être d’émotions morales.
Camus n’écrit pas sur un être insensible. À mes yeux, il écrit sur quelqu’un qui ne se sert pas du langage moral pour interpréter et pour exister. Comme si Meursault était la part naturelle de l’humain, qui sait la chaleur, la lumière, la fatigue, le plaisir, la pensée rationnelle — sans se soucier des codes et des rôles que la société attend de chacun.
La mort de la mère de Meursault dans le roman me rappelle la mort du père de Camus. Un événement qui arrive, sans signification, sans leçon, sans message, sans repentir…, puis tombe dans le silence, laissant la vie poursuivre son cours habituel.
Ce qui dérange chez ce personnage, c’est qu’il ne comble aucun vide par un récit. Meursault n’est qu’une indifférence face à toutes les illusions. L’agacement de l’homme social devant Meursault est une sorte d’irritation impuissante, comme si l’absurdité même du présent se tenait sur le côté, indifférente, froide, nous regardant nus à travers nos rôles.
Et peut-être que la plage, où la lumière joue le rôle du destin, est la version littéraire de l’enfance de Camus. Une lumière si forte qu’il n’y a plus de place pour la pensée. Elle frappe sans pitié, et Meursault, honnêtement, devient un corps qui réagit. Sans métaphore. Sans philosophie. Sans tragédie. Juste une réaction automatique et immédiate, comme fonctionne le monde physique.
Les interrogatoires, les audiences, ce théâtre où un groupe d’hommes sociaux concentre tout leur besoin de sens pour fabriquer une histoire dramatique, facile à avaler, où l’objet du jugement n’est pas l’acte mais l’âme. Ne pas pleurer devant le cercueil de sa mère signifie forcément être coupable. Peu importe de quoi. Il suffit de ne pas correspondre aux normes morales dont la société entière a besoin pour croire.
Jusqu’au bout, Meursault reste indifférent à l’idée de jouer ses émotions selon le langage social. Il trouve un apaisement dans l’indifférence douce du monde, en accord avec lui dans une sincérité immédiate, accomplissant pleinement le rôle d’un ÉTRANGER.
L’absurde n’est pas chez Meursault, mais dans l’effort désespéré de la société qui veut transformer le chaos en quelque chose qui aurait une raison, un ordre. Pour moi, “étranger” ici n’est pas seulement le regard des autres sur Meursault, ni seulement son indifférence, mais aussi l’étrangeté de l’homme social lui-même, trop habitué à attribuer du sens pour survivre, au point de devenir étranger à la nature même de la vie - à tout ce qui n’a pas nécessairement de raison aux yeux de la raison humaine.
CC, 11.2025
khi sự vô nghĩa trở thành nhẹ nhõm
Côi viết về Sisyphus ngắn, nhẹ, sắc, châm biếm, đúng chất Côi mà tôi rất thích. Qua cách nhìn ấy, tôi thấy một Sisyphus ở đúng thân phận của anh: một cơ thể và một con người. Một cơ thể con người thở, đẩy, mệt phờ, rồi làm lao động. Một sinh thể bị ép vào nhịp lặp lại vô tận, không vì tội lỗi, không vì bài học, mà vì chuyện của cơ thể là thế ư.
Dường như điều Côi nhìn thấy ở Sisyphus giống điều Côi nhìn thấy ở Meursault: một cơ thể thành thật đến mức tàn nhẫn. Một tồn tại không dùng ảo tưởng để thoa dịu sự thật. Côi viết về Sisyphus bằng một giọng rất riêng: tỉnh, thản và không trang điểm. “Hiểu rồi thì sống là sống mà thôi.”
Trong cách nhìn của Côi, Sisyphus dường như không còn là ẩn dụ triết học, cũng không phải anh hùng bị các vị thần trừng phạt, mà là hình dáng phóng đại của chính chúng ta: những người phải đẩy những hòn đá mà mình biết chắc rồi cũng sẽ lăn xuống. Công việc. Tình yêu. Tham vọng. Hy vọng. Tất cả đều có chung một định mệnh: trở lại con số không và làm lại từ đầu cả. Côi cởi bỏ hết sơn phết đạo đức và các tầng nghĩa cổ điển, chỉ giữ lại một “nhịp sống” trần trụi: sáng đẩy, chiều rơi, tối kiệt sức. Ngày mai, làm lại.
Côi đọc Sisyphus như đọc một bản hợp đồng vô nghĩa lý: đời không hứa hẹn gì cả, không câu chuyện đẹp để tin vào; hòn đá sẽ chẳng ở yên trên đỉnh, nhưng ta vẫn phải lao động thôi. Và khi ta thôi đòi hỏi đời phải có nghĩa, ta bỗng thấy hơi thở mình nhẹ nhõm hơn đôi chút.
Qua lăng kính của Côi, tôi thấy Sisyphus không phải người bị trừng phạt, hay một thánh đồ nổi loạn, mà là một người bình thường cuối ngày, được giải phóng khỏi hy vọng. Khi đặt đá xuống, biết mình còn sống. Khi biết đá sẽ rơi, thôi chờ phần thưởng. Buông bỏ ý nghĩa để tiếp tục – nhờ thế có được trải nghiệm nhẹ nhõm của sự không-tự-do.
Tinh thần phi lý của Camus, nhìn qua Côi, mang thêm một lớp hiện sinh cơ thể học: sự thật như một hiện tượng vật lý, và sự nhẹ nhõm nảy sinh khi ta không còn chống lại nó.
Nếu Camus yêu cầu “tưởng tượng Sisyphus hạnh phúc”, thì Côi chỉ gật đầu, mệt mỏi trong tỉnh táo: “Ờ, hiểu rồi – vậy thì làm thôi.”
Và đó là điều khiến tôi thích cách Côi nhìn triết lý này: hiện sinh gặp hiện thực, phi lý gặp sự trần trụi của giác quan, và huyền thoại được kéo về đúng kích cỡ của đời sống một con người.
CC, 11.2025
SISYPHE de Côi
quand l’absence de sens devient légèreté
Côi écrit sur Sisyphe de façon courte, légère, incisive, ironique, exactement le style Côi que j’aime tant. À travers son regard, je vois un Sisyphe enfin à sa juste place : un corps et un homme. Un corps humain qui respire, pousse, s’épuise, puis recommence le travail. Un être vivant condamné à une répétition infinie, non pas pour une faute, non pas pour une leçon, mais parce que c’est ainsi que fonctionne le corps, voilà tout.
Ce que Côi voit en Sisyphe ressemble étrangement à ce qu’elle voit en Meursault : un corps d’une honnêteté impitoyable. Une existence qui refuse de se consoler par l’illusion. Côi parle de Sisyphe d’une voix très personnelle : sobre, détachée, sans fard. « Une fois qu’on a compris, vivre c’est vivre, point. »
Dans la lecture de Côi, Sisyphe n’est plus une métaphore philosophique, ni un héros puni par les dieux ; il devient l’image grossie de nous-mêmes : ceux qui poussent des pierres dont on sait très bien qu’elles redescendront. Le travail. L’amour. L’ambition. L’espoir. Tout partage le même destin : retomber à zéro et recommencer. Côi dépouille le mythe de toute sa peinture morale et de ses couches classiques ; il ne reste qu’un « rythme de vie » nu : le matin on pousse, l’après-midi ça redescend, le soir on est vidé. Demain, on recommence.
Côi lit Sisyphe comme on lit un contrat parfaitement absurde : la vie ne promet rien, pas d’histoire jolie à croire ; la pierre ne restera jamais au sommet, mais il faut quand même travailler. Et quand on cesse d’exiger que la vie ait un sens, on sent soudain sa respiration devenir un peu plus légère.
À travers les yeux de Côi, Sisyphe n’est ni un puni, ni un saint rebelle ; c’est simplement un homme ordinaire à la fin de la journée, libéré de l’espoir. Quand il pose la pierre, il sait qu’il est encore vivant. Quand il sait que la pierre va retomber, il cesse d’attendre la récompense. Abandonner le sens pour continuer, c’est ainsi qu’on accède à cette légèreté paradoxale de la non-liberté.
L’esprit absurde de Camus, passé au filtre de Côi, gagne une nouvelle couche existentielle et somatique : la vérité comme phénomène physique, et la légèreté qui naît quand on ne lui résiste plus.
Si Camus nous demande d’« imaginer Sisyphe heureux », Côi se contente d’un hochement de tête, fatigué mais lucide : « Ouais, compris, alors on y va. »
Et c’est précisément ce que j’adore dans la façon dont Côi regarde cette philosophie : l’existentiel rencontre le réel, l’absurde rencontre la nudité des sens, et le mythe est ramené à la taille exacte d’une vie humaine.
CC, 11.2025
Người xa lạ và Thần thoại Sisyphus được sinh cùng năm. Và tôi thấy, nếu Người xa lạ là phòng thí nghiệm, thì Sisyphus là bản giải phẫu, ở đó Camus nhìn con người và thế giới bằng ánh sáng đèn mổ: thẳng, chói, lạnh lẽo, không giả vờ, không hứa hẹn.
Camus bắt đầu không phải bằng một học thuyết, mà bằng một trải nghiệm: khoảnh khắc chúng ta cảm thấy thế giới trở nên xa lạ. Trong một “vũ trụ đột nhiên bị tước hết những ảo tưởng và ánh sáng”, con người trở thành “một kẻ xa lạ”.
Con người cần bám vào ý nghĩa, tìm kiếm ý nghĩa qua huyền thoại, niềm tin tôn giáo, triết lý cứu rỗi, hay đúng ra là hy vọng. Động lực của phần lớn chúng ta để vật lộn sống là: ở đâu đó trên đỉnh cao thuộc về tương lai kia, mọi nỗ lực cực khổ vượt quá của ta sẽ được đền đáp bằng ý nghĩa. (Nếu không, tất cả sự tồn tại của chúng ta trong những khốn khổ lặp lại mỗi ngày là để làm gì?)
Thế giới không trả lời. Nó ném trả lại sự im lặng trong khi hòn đá lăn xuống. Và cái khoảng trống của việc ngày mai sẽ lại tiếp tục sự tra tấn đó từ đầu tạo ra một sự phi lý đến khó chịu. Sự khó chịu của một người trước ánh sáng đầu tiên của ý thức phi lý.
Sisyphus, kẻ đẩy đá lên núi để rồi thấy nó lăn xuống, không bị trừng phạt vì tội lỗi, mà vì ham muốn một cấu trúc trong thế giới không có cấu trúc.
Nhưng Camus không nhìn Sisyphus như nạn nhân. Khoảnh khắc Sisyphus đi xuống chân núi để nhặt đá. Khoảnh khắc Sisyphus nhận thức toàn bộ sự phi lý của số phận mình và chấp nhận nó. “Số phận của chàng thuộc về chính chàng.” Thì ý nghĩa sâu rộng nhất của phi lý hiện ra.
“Bản thân sự vật lộn đã đủ để lấp đầy trái tim con người.”
Đá không nhẹ đi. Núi không bớt cao. Nhưng leo núi đẩy đá không phải vì có mục tiêu tối thượng. Mà vì leo núi đẩy đá chính là đang sống. Ở chính khoảnh khắc biết mình không được cứu rỗi và nhận ra đời không nợ mình gì cả, Sisyphus trở nên tự do. Tự do giải thoát khỏi việc đòi hỏi và mong chờ câu trả lời từ vũ trụ.
Khi trả lại cho đời quyền được vô nghĩa, con người giữ lại cho mình quyền được thở. Và “Chúng ta phải tưởng tượng rằng Sisyphus hạnh phúc.”
Thần thoại Sisyphus của Camus không phải một triết học hiện sinh u tối, không phó mặc đời như người ta vẫn hay quy về Sartre, cũng không đòi hỏi phá bỏ như Nietzsche, mà chỉ nhìn thẳng vào thế giới một cách trần trụi nhất, để thấy sự vô nghĩa mà không chạy trốn, không tuyệt vọng, không tự lừa mình dối người. Và từ đó, một thứ ánh sáng mới xuất hiện: ánh sáng của sự minh bạch.
Nếu Camus đề cao chấp nhận vô nghĩa, từ đó sống trọn vẹn, nổi loạn, trung thực, thì ở mức độ cá nhân, tôi luôn nhìn nhận não bộ là một bộ máy xử lý thông tin, trong đó ý thức là đỉnh cao của hệ thống xử lý thông tin ấy. Khi nói tới thông tin và ý thức, tôi muốn nói tới trật tự và ý nghĩa. Bởi thế mà, toàn bộ hệ thống tinh thần của một con người sẽ có nguy cơ trở nên hỗn loạn và sụp đổ nếu không tìm thấy ý nghĩa, mà ý nghĩa mang nhiều tầng mức.
Nói cách khác, tôi tin rằng ý nghĩa là “thức ăn” của não bộ và hệ thống tâm lý con người. Để sống còn, nếu không thể trốn tránh hay tìm kiếm ý nghĩa bản chất của hiện thực nơi thế giới tinh thần (tôi muốn nói tới thần thoại học, triết học, tôn giáo…), con người sẽ buộc phải đối diện với sự tự sát.
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Camus được thẳng thắn đưa ra ngay từ dòng đầu tiên: “Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc: đó là tự sát.”
Tôi cũng rất thích đoạn này của ông: “Chẳng hạn tôi chưa bao giờ thấy ai chết khi đưa ra luận chứng về bản thể cả. Galile thấu hiểu một chân lý khoa học vô cùng quan trọng, nhưng ông đã dễ dàng chối bỏ nó ngay khi mạng sống của mình bị đe dọa. Xét theo một nghĩa nào đó, ông đã làm đúng. Chân lý ấy không đáng để ông chịu bị thiêu sống. Cho dù trái đất quay quanh mặt trời hay ngược lại thì cũng chẳng đáng quan tâm. Thành thật mà nói, đó là chuyện phù phiếm. Tôi cũng thấy nhiều người chết bởi họ cho rằng cuộc sống không đáng sống. Nghịch lý thay, tôi cũng thấy có những người bị giết vì những quan niệm hoặc ảo tưởng cho họ một lý do để sống (những gì được coi là lý do để sống cũng chính là lý do tuyệt vời để chết). Chính vì vậy tôi đi đến kết luận rằng câu hỏi cấp thiết nhất là: “ý nghĩa cuộc sống là gì?”. Vậy làm thế nào để trả lời câu hỏi này?”
Bởi nếu cuộc sống vô nghĩa thì tại sao ta phải sống, và tự sát theo lý thuyết phải là thử nghiệm tối hậu. Nhưng nó là một loại bỏ cuộc. Và Camus phân biệt hai loại bỏ cuộc:
Tự sát vật lý và tự sát siêu hình.
Camus coi tự sát vật lý là một sự đầu hàng, một cách “nhấn chìm phi lý trong cái chết”. Ông viết: “Tự sát đơn giản đồng nghĩa với việc thừa nhận rằng “sống mà phải nhọc nhằn đến thế thì chẳng đáng”... Trong một vũ trụ đột nhiên bị tước hết những ảo tưởng và ánh sáng, con người cảm thấy xa lạ, một người lạ. Như con người tha hương tuyệt đường vì anh ta chẳng còn chút ký ức nào về chốn quê nhà đã mất lẫn niềm hy vọng về một miền đất hứa… Người ta tự sát bởi vì cuộc sống là không đáng sống: đó chắc chắn là một chân lý, nhưng là một chân lý vô ích bởi nó vốn là sự thật hiển nhiên… Tư duy hợp lý thì quá đơn giản. Nhưng theo đuổi cái hợp lý đến tận kỳ cùng hầu như là bất khả. Do vậy những người tự sát thường đi theo khuynh hướng cảm xúc của họ.”
Tôi chia sẻ sâu sắc quan điểm đó của Camus. Tự sát vật lý với lý do đời phi lý, là sự bắt tay của bản ngã với tuyệt vọng, trong một sự buông xuôi, bỏ cuộc tuyệt đối trước vô nghĩa. Ở đó có sự an ủi và giải thoát khỏi lo sợ của hiện hữu, nhưng là con đường cao tốc dẫn thẳng tới các rối loạn tâm sinh lý, trầm cảm. Giải quyết sự phi lý bằng hủy diệt thân thể thì chẳng khác gì bị nuốt chửng bởi u mê phi lý. Tôi thấy điều ấy trong hình ảnh một Sisyphus cặm cụi đẩy đá trong đau khổ đến chết vì sự vô nghĩa, để rồi lại tái sinh không ngừng trong vai trò người đẩy đá.
Camus nói tới một loại bỏ cuộc khác trước phi lý, đó là tự sát siêu hình. Ông gọi đây là “bước nhảy vọt” của tôn giáo, hay của các triết học tìm ý nghĩa tuyệt đối. Kierkegaard nhảy vào vòng tay Thượng Đế. Platon chìm vào thế giới ý niệm. Nietzsche đồng nhất đời với ý chí quyền lực. Camus xem đây là cách lý trí trốn chạy khỏi phi lý, thay vì đối diện nó.
Trước vấn nạn đó, Camus đề nghị một sự nổi dậy hiện sinh để hòa giải với phi lý và sản sinh ra một con người phi lý. Đây là người chống lại cám dỗ của tuyệt vọng, chống lại cám dỗ của ảo tưởng, sống tỉnh thức trước sự vô nghĩa. Chỉ khi con người sống trọn vẹn với phi lý, không còn mong chờ sự cứu rỗi, không kỳ vọng đời sẽ trả lời, họ bất ngờ trở nên tự do, ông gọi là tự do phi lý.
“Tự do phi lý” không phải là muốn làm gì thì làm, không phải là tôn vinh sự vô nghĩa, mà là một tinh thần không còn bị trói buộc bởi nhu cầu tìm ý nghĩa. Đó là sự tự do khỏi hy vọng nên giải thoát khỏi thất vọng. Tự do khỏi ảo tưởng về tương lai nên giải thoát khỏi định mệnh. Hạnh phúc không đến từ ý nghĩa, không đến từ phần thưởng, không đến từ điểm đến. Nó đến từ ý thức trọn vẹn trong khoảnh khắc. “Nổi dậy chính là trạng thái mà con người khăng khăng hướng về sự minh bạch, dù biết rằng không thể đạt tới.” - ông tuyên bố. Chính trong sự không còn mong cầu cứu rỗi đó, Camus tin rằng con người bắt đầu thật sự sống.
Mặc dù, Camus đã đề cập rất rõ ràng ngay từ đầu: “Liệu có phải Sự Phi Lý đẩy người ta đến cái chết không? Vấn đề này phải được ưu tiên suy xét hơn những vấn đề khác, đứng ngoài tất cả các phương pháp tư duy và các trò luyện tập của tâm trí vô tư… Tôi làm việc này không phải với niềm đam mê bồng bột khinh suất, mà dưới ánh sáng duy nhất của các bằng chứng. ” Ông tỏ ra rất cẩn trọng với mọi khái niệm liên quan đến “ý nghĩa”, “giải thoát”, “tái sinh”, những ý tưởng nghiêng sang chiều hướng mà ông gọi là “triết lý nhảy vọt” (philosophies du saut). Tuy vậy, tôi vẫn muốn nói lên cách nhìn của mình, về một cái chết khác với tự sát siêu hình.
Tự sát siêu hình theo tôi chỉ là một cách vận hành cực đoan của lý trí, cũng hệt như phi lý chỉ có thể thành lập từ những gì mà lý trí cho là có ý nghĩa. Để thoát khỏi mê cung hai mặt của có nghĩa-vô nghĩa, tâm trí cần phải bước ra khỏi phạm vi của lý trí, vốn là vùng hoạt động mạnh mẽ của các khái niệm tồn tại (hay bản ngã).
Tôi muốn nói tới trải nghiệm về một trạng thái thăng hoa tinh thần, như con sâu tằm biến thành bươm bướm, nơi ảo giác về sự hiện hữu trường tồn tan biến. Đó là khi ý thức trải nghiệm, nhận diện, chấp nhận hoàn toàn bản chất chân thực nhất của thực tại, với một sự hiểu biết thấu triệt nằm ngoài lý trí, nằm ngoài suy tư, nằm ngoài ngôn luận. Trong trải nghiệm thông thấu, sáng tỏ, và vô ngôn đó, những xiềng xích ảo tưởng về ý nghĩa của tồn tại của lý trí vụn vỡ. Khi tinh thần không còn tìm kiếm sự hiểu biết, (vì sự hiểu biết tự thân vốn không cần hiểu biết), thì tinh thần chấp nhận tất cả mọi bản chất của đời sống là như nó vốn dĩ là.
Kể từ đó, tinh thần thoát khỏi vòng kiềm tỏa của lý trí, thoát khỏi mê cung của suy nghĩ và suy luận, của ngôn từ và biện giải, để trực tiếp trải nghiệm một sự sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại, với đầy đủ sự sáng tạo trung thực các ý nghĩa hiện hữu, như một nghệ sĩ, với một ý thức tự do lựa chọn. Nói cách khác, sự bình an, yêu thương, cống hiến và trải nghiệm… của đời sống chỉ toàn vẹn khi tâm trí con người trải nghiệm trực tiếp sự giải thoát khỏi các cấu trúc ảo tưởng về hiện hữu trường tồn (bản ngã), và trải nghiệm một sự hợp nhất với bản chất của vạn sự, cho dù chúng có vẻ hoàn toàn phi lý đối với lý trí.
Tôi không biết trải nghiệm này được lý trí gán cho khái niệm gì. Có thể là sự giác ngộ theo ngôn ngữ tâm linh? Hay một sự phản kháng hiện sinh theo ngôn ngữ triết học? Hay sự hoàn thành quá trình cá nhân hóa để trở thành một tổng thể nhân cách, theo tâm lý học C. G. Jung? Tôi chỉ biết rằng, một khi một trải nghiệm trực tiếp được gán danh và suy luận, phân tích… thì đó là lúc tinh thần rơi lại vào triết lý nhảy vọt mà Camus đã luôn đề phòng.
Điều tôi thấy phi lý nhất trong thần thoại Sisyphus, đó là Camus dành thật nhiều lập luận sắc sảo đến thắt họng, bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt tuyệt đẹp đến nhói tim để thuyết trình về sự phi lý. Thế là, lý trí của người đọc thêm một lần được chìm đắm trong vẻ đẹp mượt mà của ngôn từ sâu rộng, suôn sẻ, được ve vuốt trong mê muội trong mượt mà của ngữ nghĩa. Trong cơn say sưa suy tư ấy, ý thức khó mà thấy ra rằng: tất cả những lý luận chặt chẽ, hợp lý, hào sảng này đây, chính chúng lại đang cố biến tính chất phi lý thành một khái niệm có lý. Hay nói cách khác, khi gán ý nghĩa cho bản chất vô nghĩa là đã vô tình nhốt bản chất ấy vào ngục tù của lý trí, thật là một nỗ lực phi lý!
Ngay từ đầu cuốn sách, Camus đã nói, phi lý chỉ là một trải nghiệm tinh thần, nơi mà ý thức kinh nghiệm được sự bất dung hòa giữa khao khát ý nghĩa của con người và sự im lặng của thế giới. Phi lý nếu là một tính chất phổ quát như Camus trình bày, thì ngôn ngữ, vốn bản chất của chúng là gán ý nghĩa, sẽ không thể bao hàm nổi. Phi lý cần phải thuộc về vùng mà ngôn ngữ của suy tư không thể chạm tới. Nó không phải là vô nghĩa, chỉ là lý trí không thể tiếp nhận được câu trả lời.
Tôi không thấy sự an ủi trong Sisyphus. Chỉ có cắt. Lạnh lùng nhưng dũng cảm. Cắt rời ý nghĩa khỏi điểm đến. Cắt rời ảo tưởng khỏi hiện thực. Cắt rời lý tưởng khỏi đời sống. Cắt rời ảo vọng khỏi nỗi sợ. Và chính trong cơn phẫu thuật đau đớn ấy, kỳ lạ thay, tinh thần nhìn thấy tự do. Tự do trọn vẹn thở một hơi thở, trong sự hòa hợp với cuộc sống ở ngay hiện tại.
Và với tôi, ngọn lửa dẫn đường là sự phi lý mà Camus từng khắc khoải trao cho nhân loại:
“Ta sống như thế nào đây, khi thế giới trả lời những câu hỏi của ta bằng sự im lặng phi lý?”
CC, 11.2025
L’Étranger et Le Mythe de Sisyphe sont nés la même année. Et je crois que si L’Étranger constitue le laboratoire, alors Sisyphe en est l’anatomie. C’est là que Camus observe l’homme et le monde sous la lumière crue d’une lampe chirurgicale : droite, aveuglante, glacée, sans feinte et sans promesse.
Camus ne commence pas par une doctrine, mais par une expérience : l’instant où le monde nous devient étranger. Dans un « univers soudain dépouillé d’illusions et de lumière », l’homme devient « un étranger ».
L’être humain cherche à s’arrimer au sens : dans les mythes, la foi religieuse, les philosophies du salut, ou plus simplement, dans l’espérance. La plupart d’entre nous persévèrent en vivant grâce à l’idée qu’au sommet – là-bas, dans l’avenir – nos efforts, nos peines, finiront par être récompensés d’une signification. (Sinon, à quoi bon toutes ces misères répétées jour après jour ?)
Le monde ne répond pas.
Il renvoie seulement son silence, pendant que la pierre retombe.
Et le vide de ce recommencement, demain, encore et encore, engendre un absurde irritant – l’irritation première de la conscience devant la lumière nue de l’absurde.
Sisyphe, lui qui pousse sa pierre pour la voir aussitôt dévaler, n’est pas puni pour une faute, mais pour avoir désiré un ordre dans un monde dépourvu d’ordre.
Mais Camus ne voit pas Sisyphe en victime.
C’est au moment où Sisyphe redescend la pente pour reprendre sa pierre.
Au moment où il comprend toute la mesure de l’absurde et l’accepte.
« Son destin lui appartient. »
Alors se dévoile le sens le plus profond de l’absurde.
« La lutte elle-même suffit à remplir le cœur de l’homme. »
La pierre n’est pas plus légère.
La montagne n’est pas moins haute.
Mais pousser la pierre n’a pas un but suprême : pousser la pierre, c’est vivre.
Au moment précis où il sait qu’il ne sera pas sauvé, où il reconnaît que la vie ne lui doit rien, Sisyphe devient libre. Libre de l’attente, libre de la demande adressée au monde.
Quand on rend au monde son droit à l’insignifiance, on récupère pour soi le droit de respirer.
Et « il faut imaginer Sisyphe heureux. »
Le Mythe de Sisyphe n’est pas une philosophie existentielle sombre, ni une résignation comme on l’attribue parfois à Sartre, ni une exigence de destruction à la Nietzsche. C’est un regard nu sur le monde, sans fuite, sans désespoir, sans mensonge. Et de ce regard naît une lumière nouvelle : la lumière de la lucidité.
Si Camus prône l’acceptation de l’absurde – pour vivre pleinement, dans la révolte et dans la vérité –, moi, je vois l’esprit humain comme une machine à traiter l’information, dont la conscience est l’accomplissement. Parler d’information, c’est parler d’ordre et de sens. Lorsque le sens manque, tout le système peut se fissurer.
Le sens est, à mes yeux, la nourriture de l’esprit.
Pour survivre, si l’on ne peut ni fuir ni trouver un sens dans les sphères symboliques (mythologie, philosophie, religion…), il ne reste que la confrontation avec le suicide.
Je partage entièrement la phrase inaugurale de Camus :
« Il n’y a qu’un problème philosophique vraiment sérieux : c’est le suicide. »
Et j’aime particulièrement ce passage où il écrit :
« Jamais encore je n’ai vu personne mourir pour un argument ontologique. Galilée savait que sa vérité scientifique était capitale ; pourtant, il renia cette vérité dès que sa vie fut menacée. À juste titre, d’ailleurs. Cette vérité ne valait pas qu’on la brûle. Que la terre tourne autour du soleil ou l’inverse, cela importe peu : c’est dérisoire. J’ai vu, en revanche, des gens mourir parce qu’ils estimaient que la vie ne valait pas la peine d’être vécue. Et, paradoxalement, j’ai vu d’autres êtres se faire tuer pour des croyances ou des illusions qui leur donnaient une raison de vivre. Les raisons de vivre sont aussi les raisons excellentes de mourir. Ainsi j’en viens à conclure que la question la plus urgente est : quel est le sens de la vie ? Et comment y répondre ? »
Car si la vie est dépourvue de sens, pourquoi vivre ? Le suicide devrait alors être l’épreuve ultime.
Mais ce n’est qu’une forme d’abdication.
Et Camus distingue deux formes d’abandon :
le suicide physique et le suicide métaphysique.
Le suicide physique est pour Camus une capitulation, une manière de « noyer l’absurde dans la mort ». Il écrit :
« Se suicider revient simplement à reconnaître que vivre est trop pénible. Dans un univers soudain privé d’illusions et de lumière, l’homme se sent étranger. Comme l’exilé privé à la fois du souvenir d’une patrie perdue et de l’espérance d’une terre promise… Les gens se suicident parce que la vie ne vaut pas la peine d’être vécue : vérité incontestable, mais inutile, car évidente… La raison raisonnante est trop simple ; la poursuivre jusqu’au bout est presque impossible. Ainsi ceux qui se suicident obéissent la plupart du temps au mouvement de leur sensibilité. »
Je partage profondément cela.
Le suicide physique, comme réponse à l’absurde, est l’alliance du moi et du désespoir : une reddition totale. C’est une illusion de paix, qui conduit en réalité vers l’effondrement psychique, la dépression, la destruction. Quand on tue le corps pour résoudre l’absurde, on ne triomphe pas de l’absurde : on y est englouti.
Je vois dans cette figure un Sisyphe qui pousse sa pierre jusqu’à s’écrouler, pour renaître aussitôt et recommencer.
Camus décrit ensuite une autre fuite : le suicide métaphysique.
C’est le « saut » religieux ou philosophique :
Kierkegaard sautant dans les bras de Dieu.
Platon s’enfuyant vers le monde des Idées.
Nietzsche transformant la vie en volonté de puissance.
Pour Camus, ce sont des fuites de la raison devant l’absurde, et non des conquêtes.
Face à ces formes d’abandon, Camus propose une autre voie : la révolte existentielle, qui engendre l’homme absurde.
Cet homme refuse la tentation du désespoir comme celle de l’illusion.
Il vit dans l’éveil.
Et c’est seulement lorsqu’il ne demande plus rien – ni salut, ni réponse – que la liberté apparaît : la liberté absurde.
La « liberté absurde » n’est ni licence ni célébration du non-sens.
C’est l’esprit débarrassé de l’exigence de signification.
Libre de l’espoir, donc libre du désespoir.
Libre de l’avenir, donc libre du destin.
Le bonheur ne vient ni du sens, ni de la récompense, ni du but.
Il vient de la présence lucide.
« La révolte est ce mouvement qui conduit l’homme à exiger la clarté, tout en sachant qu’elle est impossible. »
C’est là que commence la vie véritable.
Bien que Camus se montre extrêmement prudent avec toutes les notions de « sens », de « délivrance », de « renaissance », qu’il range du côté des « philosophies du saut », je voudrais parler d’une autre forme de mort, distincte du suicide métaphysique.
Le suicide métaphysique, à mes yeux, est une opération extrême de la raison – tout comme l’absurde ne surgit que d’un effort excessif de la raison pour trouver du sens.
Pour sortir du labyrinthe du sens et du non-sens, l’esprit doit parfois s’aventurer hors du domaine de la raison – qui est le territoire des concepts d’existence et donc du moi.
Je veux parler d’une expérience d’élévation intérieure – comme la métamorphose du ver en papillon –, où l’illusion d’une existence permanente se dissout.
Un état où la conscience perçoit et accepte la réalité dans sa vérité la plus nue, avec une connaissance directe, au-delà de la pensée, au-delà du langage.
Dans cette transparence silencieuse, les chaînes conceptuelles du sens se brisent.
Lorsque l’esprit cesse de chercher à comprendre (car la compréhension véritable n’exige aucune compréhension), il laisse les choses être ce qu’elles sont.
Dès lors, l’esprit échappe à l’emprise de la raison, au labyrinthe des analyses, des mots, des explications. Il accède à une expérience directe, pleine, créatrice, libre – comme un artiste.
La paix, l’amour, le don, l’expérience de vivre ne deviennent entiers qu’à ce niveau-là : lorsque l’esprit se libère des illusions d’un moi permanent et s’unit à l’essence des choses – même si cette essence demeure absurde pour la raison.
Je ne sais quel nom la raison donnerait à une telle expérience.
Un éveil spirituel ?
Une révolte existentielle ?
L’achèvement du processus d’individuation, selon Jung ?
Tout nom serait déjà une trahison. Car nommer, c’est retomber dans le saut philosophique que Camus nous demande d’éviter.
Et ce qui me frappe le plus, dans Sisyphe, c’est l’immense ironie : Camus déploie des raisonnements d’une beauté rigoureuse, d’une clarté poignante, d’une élégance presque dangereuse… pour parler de ce qui, par essence, échappe à la raison.
Ainsi, le lecteur – ébloui par la perfection de la pensée – risque d’oublier que tous ces raisonnements sont eux-mêmes une tentative de transformer l’absurde en concept.
Donner du sens à l’absence de sens, c’est risquer de trahir l’absurde – de l’enfermer dans la cage de la pensée.
Camus l’avait pourtant dit au début :
l’absurde n’est pas une idée, mais une expérience.
Une friction entre la soif humaine de sens et le silence du monde.
Si l’absurde était vraiment une propriété universelle, comme Camus semblait vouloir le démontrer, alors le langage – dont la fonction est de donner un sens – ne pourrait jamais le contenir totalement.
L’absurde appartient à un territoire où les mots ne suffisent plus.
Il n’est pas le non-sens : il est simplement ce que la raison ne peut saisir.
Je ne vois aucune consolation dans Sisyphe.
Rien que des coupures.
Froides, mais courageuses.
Couper le sens du but.
Couper l’illusion du réel.
Couper l’idéal de la vie.
Couper le désir de la peur.
Et dans cette opération douloureuse, une liberté inattendue apparaît : la liberté de respirer, pleinement, dans l’instant.
Et pour moi, la flamme qui reste, c’est la même question que Camus a tendue à l’humanité :
« Comment vivre, lorsque le monde répond à nos questions par un silence absurde ? »
CC, 11.2025