THÁNG TÁM
THÁNG TÁM
THẦN THOẠI
Có một buổi chiều, tôi ngồi bên góc làm việc quen, mưa lất phất ngoài cửa sổ kín rèm, ngẫm ngợi những điều mà thân chủ vừa kể, về những ngày tháng người ấy cảm thấy như cả thế giới đã bỏ quên mất mình. Không phải vì thiếu những lời an ủi sáo mòn hay những cái ôm vội vã, mà vì chẳng ai thực sự nhìn thấy nỗi đau đang gào thét trong lòng.
“Nặng nề khủng khiếp!”, người ấy chua chát, “Điều tệ hơn cả tổn thương, là cảm giác phải gánh vác những nỗi niềm, phải chịu đựng những điều chẳng ai trông thấy cả!”
Tôi ứa lệ.
Chúng ta đều từng ở đó, phải không?
Nơi mà nỗi đau không chỉ là những vết cắt mưng mủ trong lòng, mà còn là cái bóng nặng trịch, u áp của chính vết cắt ấy. Cô độc, lặng câm, ta chịu đựng.
Giống như một vị khách xa xưa không mời, cái bóng của tổn thương xộc vào hiện tại, trong khung cảnh đã thuộc về quá khứ, thì thầm rằng "chẳng ai quan tâm, chẳng ai hiểu, chẳng ai thấy, chẳng ai thèm, chẳng ai để ý... Chỉ có ta và mi..." Và thế là, nỗi đau không chỉ là chuyện tổn thương, mà còn là tủi phận, là lạnh lẽo, của sự chưa từng được trông thấy.
Phải chăng, tủi lạnh của vô hình mới là bộ mặt thật của cô độc?
Chúng ta đều từng ở đó, phải không?
Những đêm mệt mỏi, buông xuôi để thất vọng nuốt chửng lấy mình, ta lại những muốn phơi bày với một ai đó về cảm giác như đang trôi nổi giữa hư không, chơ trọi, chênh vênh, vô định...
Người ấy sẽ không nói gì nhiều, chỉ tò mò, dịu dàng, chứng kiến... Không nhắc nhở "đã qua" và mang giải pháp cho một quá khứ đã xảy ra. Không có “cố lên, sẽ ổn thôi” cho hiện tại vốn không quá tệ. Và cũng không có "hãy tiến lên phía trước" nào cho một tương lai chưa tới.
Vâng, điều cần xảy ra đơn giản là một sự hiện diện, tò mò, mà không phán xét, cùng ta trải qua một lần nữa những thước phim đau buồn cũ kỹ mà ta cứ mải phải kể lại cho mình. Và đưa vào trong câu chuyện cô độc của ta một yếu tố mới, một nhân vật tươi sáng - người chứng kiến ở ngoài kia.
Người ấy nói với ta: "Tôi thấy chuyện đã xảy ra với bạn. Tôi thấy mang vác trên vai từng ấy năm những nỗi niềm vô diện, thật bất công, cô độc và khó khăn cho bạn! Nỗi đau này, chúng có thật!”
Thì bỗng nhiên, trong khoảnh khắc đó, cái bóng vô hình của cô đơn như nhẹ nhõm đi phần nào. Ta cảm thấy sự kiên cường và dũng cảm của mình quả không uổng phí. Tổn thương không bị xóa đi, nhưng cảm giác một mình, vô hình, chơ vơ, lạc lõng thì có. Nỗi đau và sang chấn của chúng vẫn vẹn nguyên, nhưng không còn là một bí mật nặng nề mà ta mãi lầm lũi cõng gánh một mình.
Simone Weil, triết gia với trái tim nhạy cảm thủa nọ, từng nói: “Chúng ta đều cần một linh hồn khác để được nhìn thấy và thấu hiểu.” Lời an ủi này như một cái chạm vào nhu cầu thẳm sâu, nhắc nhở rằng khao khát một nhân chứng cho nỗi đau của mình không phải là yếu đuối. Đó là nhu cầu có bản chất rất con người. Chúng ta hay tự trách mình, những điều mà người khác đòi hỏi: “Sao không đủ mạnh để tự đứng lên như vậy?” Nhưng có ai thật sự tồn tại mà không cần đến ánh nhìn của một người khác không?
Cô đơn tận cùng là bản chất của hiện sinh. Vâng. Nhưng giữa tận cùng của cô đơn ấy, một người chứng kiến có thể đem lại phép màu diệu kỳ. Không xóa được những nỗi đau, nhưng người ấy khiến ta ngừng rơi một mình trong vực thẳm cô quạnh. Như thể mắt họ là một chiếc gương, nói với ta rằng: “Cũng như bạn, với tôi, những tổn thương ấy, nhưng nỗi đau này, đều có thật.” Họ trao cho nỗi đau của ta một “thực tại mới”, nơi mà những tổn thương của ta được công nhận.
Vì thế, lần tới khi bạn bắt gặp một người đang đau khổ, xin đừng vội tìm cách xoa dịu nỗi đau bằng các giải pháp và những lời khích lệ, động viên. Hãy thử chỉ ngồi đó, lắng nghe, hiện diện, tử tế cùng họ xem lại những chuyện đau đớn vô hình. Có thể, trong khoảnh khắc ấy, bạn đang tặng họ một món quà quý giá - quyền hiện diện của đau thương.
Nói cho cùng, ta có thể giúp ai chữa lành được điều gì, nếu với ta nó chưa từng hiện hữu?!
LE DROIT À LA PRÉSENCE DE LA SOUFFRANCE
Un après-midi, assis dans mon coin de travail familier, la pluie fine cachée derrière les rideaux tirés, je méditais sur les confidences d’une patiente : ces jours où elle avait le sentiment que le monde entier l’avait oubliée. Non pas par manque de paroles de consolation toutes faites ni d’étreintes rapides, mais parce que personne ne voyait vraiment la souffrance qui hurlait en elle.
« C’est d’un poids insoutenable ! », dit-elle avec amertume. « Ce qui est pire que la blessure, c’est de devoir porter seule ces fardeaux, d’endurer ce que personne ne voit plus ! »
Les larmes me sont montées aux yeux.
Nous sommes tous passés par là, n’est-ce pas ?
Cet endroit où la souffrance n’est pas seulement une plaie purulente dans le cœur, mais aussi l’ombre lourde, oppressante, de cette plaie même. Solitaire, muet, on endure.
Comme un vieil invité non désiré, l’ombre de la blessure surgit dans le présent, dans un décor déjà appartenant au passé, et murmure : « Personne ne s’en soucie, personne ne comprend, personne ne voit, personne ne remarque… Il n’y a que toi et moi. » Alors, la souffrance n’est plus seulement blessure, mais aussi humiliation, froideur - celle de n’avoir jamais été vue.
Et si le froid de l’invisible était le vrai visage de la solitude ?
Nous y avons tous été, n’est-ce pas ?
Ces nuits d’épuisement, où l’on s’abandonne et se laisse engloutir par le désespoir, avec ce désir brûlant de se confier à quelqu’un, de dire ce sentiment de flotter dans le néant, abandonné, vacillant, sans repère…
Cette personne ne dira pas grand-chose. Elle sera simplement là : curieuse, douce, témoin… Sans rappeler que « c’est passé » ni proposer de solutions pour un passé révolu. Pas de “Courage, ça ira mieux" pour un présent qui n’est pas si terrible. Sans « Avance, tout ira bien » pour un futur qui n’est pas encore là.
Oui, parfois, ce qu’il faut, c’est une présence simple, curieuse, sans jugement, qui nous accompagne pour revoir encore une fois ces vieux films de souffrance que nous nous racontons sans cesse à nous-mêmes. Une présence qui introduit dans notre récit solitaire un élément nouveau, une figure lumineuse : le témoin, dehors, à nos côtés.
Ce témoin dira : « Je vois ce qui t’est arrivé. Je vois le poids que tu as porté toutes ces années, ces souffrances invisibles, injustes, solitaires, si lourdes pour toi. Cette souffrance, elle est réelle ! »
Et soudain, dans cet instant, l’ombre invisible de la solitude semble s’alléger un peu. On sent que notre courage et notre endurance n’ont pas été vains. La blessure ne disparaît pas, mais le sentiment d’être seul, invisible, perdu, lui, se dissipe. La souffrance et le traumatisme sont toujours là, intacts, mais ils ne sont plus ce secret écrasant qu’on traîne, seul, en silence.
Simone Weil, philosophe au cœur sensible, a dit un jour : « Nous avons tous besoin d’une autre âme pour être vus et compris. »
Ces mots touchent le plus profond : ils rappellent que désirer un témoin pour sa souffrance n’est pas une faiblesse. C’est une nécessité profondément humaine. On se reproche souvent, ou l’on nous reproche: « Pourquoi n’es-tu pas assez fort pour te relever seul ? » Mais qui peut vraiment exister sans le regard d’un autre ?
La solitude extrême est peut-être l’essence de l’existence, oui. Mais au cœur même de cette solitude, la présence d’un témoin peut être un miracle discret. Elle n’efface pas la souffrance, mais elle empêche que nous tombions seuls dans l’abîme. Comme si ses yeux devenaient un miroir et nous disaient : « Comme toi, à mes yeux, ces blessures et cette souffrance sont réelles. » Elle donne à notre souffrance une « nouvelle réalité », un lieu où nos blessures sont reconnues.
Alors, la prochaine fois que vous croiserez une personne en souffrance, ne vous précipitez pas pour l’apaiser avec des solutions ou des encouragements. Essayez simplement d’être là, d’écouter, de témoigner avec bienveillance de ces douleurs invisibles. Peut-être, dans cet instant, lui offrirez-vous un cadeau précieux : le droit à la présence de la souffrance.
Car, au fond, comment pourrions-nous aider quelqu’un à guérir de ce qui, pour nous, n’a jamais existé ?
TẬN THẾ
Hỡi người lữ hành trong đêm, khắp các miền đất, và qua bao nền văn hóa, nhân loại đều đã hát lên những khúc ca về Tận Thế, như tiếng trống ngân vọng từ sâu thẳm linh hồn.
Ở phương Bắc lạnh giá, Ragnarök nổi lên bi kịch của định mệnh. Thần và quái vật cùng gục ngã, rồi từ tro tàn, một trái đất mới lại xanh tươi.
Ở phương Tây, nơi thập tự soi sáng, Khải Huyền váng vọng chói tai tiếng kèn thiên sứ: ngày Phán Xét, kẻ ác tiêu diệt, người công chính bước vào Giêrusalem mới từ thiên đàng rơi.
Phía Đông huyền nhiệm, trong hơi thở vũ trụ vĩnh hằng, Hindu và Bouddhist hát trường ca về chu kỳ bất tận: thành – trụ – hoại – không, thế giới như mùa lá rụng, rồi từ ấy tái sinh lại nảy mầm.
Ở vùng đất kim tự tháp và mặt trời rực lửa, là dấu ấn những kỷ nguyên mặt trời nối tiếp lấy nhau, mỗi lần sụp đổ lại mở ra một thời đại mới, nuôi sống bằng máu tế hiến thời Aztec và Maya.
Và nơi thung lũng cổ xưa Lưỡng Hà, Đại Hồng Thủy cuốn trôi loài người, để rồi chỉ một số ít là sống sót.
Hỡi người lữ hành trong đêm, khắp các miền đất, mà mỗi nền văn hóa đã dệt nên một tấm vải khác.
Nơi đây coi Tận Thế là định mệnh anh hùng.
Nơi kia tin đó là phán xét đạo đức.
Có nơi là nhịp thở của vũ trụ tự nhiên.
Và có nơi, chu kỳ máu, thời gian đỏ nhật nguyệt.
Ôi tất cả những tiếng hát ca, trong một bản hợp xướng Khải Huyền đồng khuyến vọng:
Không có chi vĩnh hằng,
tất cả sẽ diệt vong
Hủy diệt ôm trong lòng
hạt tái sanh ẩn lặng.
APOCALYPSE
Ô voyageur de la nuit, à travers toutes les terres et au fil des cultures, l’humanité a chanté les hymnes de l’Apocalypse, tels des tambours résonnant du plus profond de l’âme.
Au Nord glacé, le Ragnarök surgit comme la tragédie du destin : dieux et monstres s’effondrent ensemble, mais des cendres renaît une terre verdoyante.
À l’Ouest, là où la croix éclaire, l’Apocalypse retentit comme la trompette des anges : le Jour du Jugement, les méchants anéantis, les justes entrant dans la nouvelle Jérusalem descendue du ciel.
À l’Orient mystérieux, dans le souffle éternel du cosmos, l’hindouisme et le bouddhisme entonnent leur chant infini des cycles : formation – maintien – destruction – vacuité, le monde tel une saison de feuilles mortes, puis refleurissant.
Sur la terre des pyramides et du soleil flamboyant, les Mayas et les Aztèques inscrivent les ères solaires qui se succèdent : chaque effondrement ouvre un nouvel âge, nourri de sang sacrificiel.
Et dans l’antique vallée de Mésopotamie, le Déluge emporta l’humanité, pour qu’une poignée de survivants seulement rallume la flamme de la vie.
Ô voyageur de la nuit, à travers toutes les terres, chaque culture a tissé une étoffe différente :
Ici, l’Apocalypse est un destin héroïque.
Là, elle devient jugement moral.
Ailleurs, elle n’est que souffle naturel de l’univers.
Et parfois, elle est le cycle du sang, du soleil et du temps.
Ô tout cela, telles des voix multiples dans une symphonie apocalyptique, élèvent un même chant :
Rien n’est éternel,
tout doit périr, mortel.
Dans l’impermanence,
la destruction sème la renaissance.
Hỡi lữ khách trên đường mịt mù, từ bình minh ý thức, nhân loại hát vang khúc ca Khải Hoàn, về khát vọng vượt bóng tối, dựng trật tự từ hỗn mang, như sấm truyền qua muôn thời đại.
Nơi gió biển Aegea thì thào, thi sĩ Hy Lạp kể về Chaos, vực sâu nguyên thủy. Từ đó, Gaia sinh trời đất, tình yêu và ánh sáng dệt nên vũ trụ, mở đầu khúc ca khải hoàn của nhân sinh.
Ở Lưỡng Hà cổ kính, con cháu Sumer ngợi ca Marduk, thần anh hùng hạ quái xà Tiamat, xẻ thân nó thành trời đất. Khải Hoàn là chiến thắng oai hùng, lập trật tự cho sự sống tồn dưỡng.
Trong Ginnungagap băng giá Bắc Âu, khổng lồ Ymir ngã xuống dưới lưỡi gươm thần thánh, thân xác hóa sông núi, bầu trời, biển cả, tóc thành cỏ hoa. Khải Hoàn viết bằng máu hiến tế, nơi sự chết của thần mở đường cho sự sống bừng nở.
Ở Trung Hoa, Bàn Cổ dùng rìu tách hỗn độn, Nữ Oa vá trời bằng ngũ sắc, nặn người từ bùn, chữa lành đổ nát. Khải Hoàn là vòng tay mẫu tử, ôm ấp muôn loài, cứu thế gian khỏi vụn vỡ.
Nơi Ấn Độ huyền bí, Trứng Vàng Hiranyagarbha nở ra vũ trụ. Brahma tạo, Vishnu giữ, Shiva hủy và tái sinh. Khải Hoàn là chu kỳ vĩnh cửu, chiến thắng của sự sống trước hủy diệt, như sông thiêng chảy mãi.
Trong Kinh Thánh uy nghiêm, Đấng Tạo Hóa phán: “Hãy có ánh sáng.” Ánh sáng xua tan bóng tối hỗn mang. Khải Hoàn là Logos, lời phán quyết đạo đức, dẫn người công chính vào Giêrusalem rực rỡ vinh quang.
Và nay, khoa học thì thầm về Big Bang, điểm kỳ dị biến năng lượng thành vật chất, tinh tú bạt ngàn, muôn sinh trù phú. Khải Hoàn như một điểm rung vỡ, mở ra cả một vũ trụ bao la.
Hỡi lữ khách, từ Đông sang Tây, Bắc xuống Nam, mỗi nền văn hóa dệt một trường ca, nhưng tất cả đều hát rằng:
Không có chi vĩnh hằng, trong hỗn mang,
Giữa đổ nát, ánh sáng lại bừng sáng,
Biển năng lượng đầy tràn,
Trật tự đem sự sống tái sanh.
TRIOMPHE DE LA CREATION
Ô voyageur sur le chemin obscur, depuis l’aube de la conscience, l’humanité chante avec ferveur l’hymne du Triomphe, l’aspiration à surmonter les ténèbres, à ériger l’ordre à partir du chaos, tel un tonnerre résonnant à travers les âges.
Là où murmure le vent de l’Égée, les poètes grecs content Chaos, l’abîme primordial. De là naquit Gaia, mère du ciel et de la terre, tissant l’univers d’amour et de lumière, prélude au chant triomphal de l’humanité.
Dans l’antique Mésopotamie, les héritiers de Sumer louent Marduk, dieu héroïque terrassant le serpent Tiamat, dont le corps scindé devint ciel et terre. Le Triomphe est ici victoire éclatante, instaurant l’ordre pour la survie et la prospérité des vivants.
Dans l’immense vide glacé de Ginnungagap, en terre nordique, le géant Ymir tomba sous l’épée divine, son corps se mua en rivières, montagnes, cieux, mers, et ses cheveux en herbes fleuries. Le Triomphe, écrit dans le sang sacrificiel, ouvre la voie à l’éclosion de la vie.
En Chine, Bàn Cổ fendit le chaos d’un coup de hache, et Nữ Oa, avec ses mains maternelles, rapiéça le ciel de couleurs quintessencielles, façonna l’homme de glaise, guérissant les ruines. Le Triomphe est l’étreinte d’une mère, enveloppant toute créature, sauvant le monde de l’effondrement.
Dans l’Inde mystique, l’Œuf d’Or Hiranyagarbha éclot en un univers vaste. Brahma crée, Vishnu préserve, Shiva détruit et régénère. Le Triomphe est un cycle éternel, victoire de la vie sur la destruction, tel un fleuve sacré coulant sans fin.
Dans les paroles augustes de la Bible, le Créateur ordonna : « Que la lumière soit. » Et la lumière dissipa les ténèbres chaotiques. Le Triomphe est le Logos, parole morale, guidant les justes vers une Jérusalem resplendissante de gloire.
Et aujourd’hui, la science murmure au sujet du Big Bang, point singulier transformant l’énergie en matière, étoiles innombrables, vie foisonnante. Le Triomphe est cette rupture vibrante, ouvrant un univers infini.
Ô voyageur, d’Est en Ouest, du Nord au Sud, chaque culture tisse une épopée, mais toutes chantent d’une même voix :
Rien n’est éternel dans le chaos,
Des ruines s’élève un chant nouveau,
Océan d’énergie, flamme sans fin,
L’ordre triomphant fait naître le matin.